Ngoài việc nhấn mạnh đến hành vi chân chánh và thảo luận dân chủ, Đức Phật tin tưởng xác quyết rằng không có quyền lực tuyệt đối nào về sự lãnh đạo Tăng đoàn có thể ngự trị trong bất kỳ thành viên Tăng-già nào. Khi các vị đệ tử của hỏi về vấn đề ai sẽ là người thay thế Như Lai lãnh đạo Tăng đoàn, Đức Phật đã trả lời rằng chỉ có chánh pháp, quy luật muôn đời, có thể đảm nhiệm chức năng đó. Lời khải thị này dù trải qua hơn 2500 năm vẫn có giá trị vô song cho thời đại chúng ta hôm nay. Hơn thế nữa, lời dạy ấy đã được thi hành trong thiết chế chính trị của chúng ta, trong các hội đoàn dân chủ của chúng ta và còn là nguồn khích lệ và khai thị vĩnh hằng.
Tổng Thống Ấn Độ, Tiến Sĩ Dayal Sharma, Nói Về Triết Học Của Đức Phật
Thích
Tâm Tịnh dịch
Các giá trị do Đức Phật giảng dạy như tình
thương không biên giới, phục vụ nhân loại, sự bình đẳng và sự tôn trọng chân
giá trị của con người, các giá trị phổ quát và có thể ứng dụng khắp nơi, đã cấu
thành nên nền tảng đạo đức và luân lý vững chắc của xã hội của chúng ta, của
quốc gia của chúng ta và của những đặc cách của chúng ta. Các giá trị này đã là
những nguyên lý hàng đầu cho cuộc đấu tranh giành độc lập của đất nước chúng
ta. Các giá trị ấy đã được thể hiện vào quốc hiệu của chúng ta, đầu cột Sư tử
của đại đế A-dục, biểu tượng chủ quyền của đất nước Ấn Độ. Bốn con Sư tử hướng
mặt về bốn phương tượng trưng cho thông điệp của Ấn Độ, thông điệp của Phật
giáo, gởi đến nhân loại xưa và nay. Bánh xe cuộc đời, qui luật và chánh pháp
(Dharmachakra) của Phật giáo đã trang hoàng cho quốc kỳ của Ấn Độ.
Thông điệp của Như Lai trở nên quan trọng
không chỉ cho từng hành vi của từng cá nhân mà hơn thế, là thước đo cho sự
tương quan giữa con người với con người. Thông điệp ấy vô cùng quan trọng cho
quốc gia và xã hội của chúng ta, cho mối bang giao giữa các quốc gia trên thế
giới, và trên thực tế, cho toàn thể nhân loại.
Đức Phật Thích Ca đã nhấn mạnh đến tầm quan
trọng của tâm trong tư duy và hành động của con người. Hành vi chân chánh chỉ
có thể có được bằng sự thanh lọc tâm. Suốt cuộc đời hoằng pháp không mệt mỏi
của Đức Phật, Ngài đã chứng minh bằng chính cuộc sống của Ngài rằng con đường
giải thoát chính mình, giác ngộ và niết-bàn chỉ có thể đạt được bằng sự thanh
lọc tâm. Cặp kệ đầu tiên của Kinh Pháp Cú, bộ Kinh quan trọng như Kinh Thánh
của các tôn giáo khác, phản ánh rất rõ điều này:
"Tâm dẫn đầu các hiện tượng tâm lý;
tâm làm chủ và tâm tác tạo tất cả. Do đó, nếu con người nói năng hay hành động
với tâm bất thiện, khổ báo sẽ lê bước theo sau như bánh xe lăn theo dấu chân
của bò kéo xe".
"Tâm dẫn đầu các hiện tượng tâm lý;
tâm làm chủ và tâm tác tạo tất cả. Do đó, nếu con người nói năng hay hành động
với tâm cao thượng, hạnh phúc sẽ dấn bước theo sau như bóng theo hình".
Đặt lời dạy trên trong bối
cảnh và thời đại của Đức Phật lúc bấy giờ, chúng ta sẽ thấy triết lý này rõ nét
hơn. Đó là thời kỳ khi mà các tôn giáo bấy giờ đã trở nên thiết chế hóa và cả
một cấu trúc xã hội phát triển chỉ đặt trên nền tảng đức tin di truyền và mù
quáng, như Jawaharlal Nehru đã khẳng định trong tác phẩm của ông "Sự khám
phá Ấn Độ" (Discovery of India):
Đức Phật đã bi-trí-dũng chống lại tôn giáo
quần chúng, những tập tục mê tín, các lễ nghi phiền toái, các thầy tu bà-la-môn
thủ đoạn và những đặc quyền đặc lợi giành cho giai cấp này. Ngài cũng đã lên án
những quan niệm thần học và siêu hình học, các bùa phép, sự thiên khải và sự
siêu nhiên phản khoa học. Ngài chú trọng đến logic, lý trí và thực nghiệm. Ngài
nhấn mạnh đến các phương diện đạo đức và phương pháp của Ngài là sự phân tích
mang tính tâm lý học...Toàn thể phương pháp tiếp cận của Ngài đạt đến nguồn thở
của không khí trong lành của núi rừng sau trạng thái không khí đánh giá siêu
hình".
Đó là bối cảnh Đức Phật truyền bá triết học
hành vi và tư tưởng lý trí. Ngài khuyên tất cả mọi người nên áp dụng các tiêu
chuẩn của lý trí và logic vào những hình thái triết học, ý niệm và những phương
thức hành trì, ngay cả những giáo huấn của chính Ngài. Trong Kinh bộ Tăng chi,
đức Phật dạy dân tộc Kalama rằng:
"Này các thiện nam tín nữ Kalama,
không nên chấp nhận bất cứ lời dạy nào (hiện tượng) chỉ vì điều đó là do người
khác tương truyền hoặc chỉ vì điều đó thuộc về truyền thống hoặc chỉ vì bạn tin
rằng đó là trách nhiệm của bạn hoặc chỉ vì điều đó được ghi lại trong Kinh điển
hoặc chỉ vì bị áp lực của tranh luận hoặc chỉ vì người nào đó bảo bạn rằng đây
là con đường hoặc chỉ vì hình thức bên ngoài hay thẩm mỹ của hình thức hoặc chỉ
vì người nói điều đó là thầy của bạn.
Này các thiện nam tín nữ, khi nghe một điều
gì, các vị nên quán sát, suy tư và thể nghiệm và chỉ khi nào, sau khi quán sát,
quý vị thực sự nhận thấy lời dạy này là tốt lành, đạo đức, hướng thượng, chói sáng
và được người trí tán thán; nếu sống và thực hành theo các lời dạy này sẽ đem
lại hạnh phúc, an lạc thực sự ngay hiện tại và về sau, thì lúc ấy quý vị hãy
đặt niềm tin vững chắc và thực hành theo."
Đó là nguyên lý của một đức tin lý trí và
khoa học, đặt nền tảng trên phân tích và thể nghiệm. Ngài dạy ngay cả lời dạy
của Ngài cũng không nên chấp nhận với một thái độ thiếu nhận thức và không đặt
vấn đề. Trong Kinh Tương Ưng, Ngài dạy rằng:
"Như thợ vàng thử vàng bằng nhiều cách
khác nhau, này các Tỳ-kheo, hãy khảo sát lời dạy của Như Lai bằng nhiều cách
khác nhau. Hãy chấp nhận chúng khi nào các vị thấy chúng có giá trị. Đừng chấp
nhận với thái độ chỉ vì đó là những lời dạy của Như Lai."
Tính nhân bản của Đức Phật và sự vĩ đại của
triết học của Ngài chói sáng thông qua những lời dạy sâu sắc và cao đẹp này.
Chỉ có Bậc giác ngộ, người đã nhổ sạch gốc rễ của bản ngã, mới có thể khiêm tốn
như thế.
Tinh hoa triết học của Đức Phật được thể
hiện trong và tuôn trào từ suối nguồn Trung đạo qua bài Kinh Chuyển pháp luân.
Tại đây, trong vườn nai của đất thiêng Sarnath, Ngài đã dạy chúng ta:
"Này các Tỳ-kheo, con đường trung đạo,
con đường xa lìa hai cực đoan, được Như Lai giảng dạy là con đường khai mở mắt,
đem đến nhận thức, có khả năng đem lại sự an lạc của nội tâm, đạt đến trí tuệ
cao thượng và sự chứng đắc toàn vẹn."
Lời dạy này là lời khuyên sâu xa cho từng
cá nhân lẫn đoàn thể, xã hội. Nó khuyên chúng ta tránh xa những trạng thái
không cân bằng và những thái quá dẫn đến cực đoan trong nhiều phương diện của
cuộc sống. Hành vi chân chánh đối với từng cá nhân là sự hành trì sự thăng
bằng, cân đối và hài hòa trong nếp nghĩ và hành vi, như được trình bày trong
Thanh Tịnh Đạo luận:
"Tám chánh đạo là thánh đạo, là trung
đạo và được mô tả như sau: chánh kiến là ngọn đuốc soi đường, chánh tư duy là
người hướng dẫn, chánh ngữ là nơi cư trú trên con đường, chánh nghiệp là dáng
đi trang nghiêm, ngay thẳng, chánh mạng là thực phẩm, chánh tinh tấn là những
bước đi, chánh niệm là hơi thở và chánh định mang lại sự an lạc cho suốt lộ
trình."
Tương tự Đức Phật nhấn mạnh tầm quan trọng
của sự kiểm thúc thân tâm qua các kệ pháp Cú thứ 360 và 361:
"Lành thay gìn giữ mắt này,
Lành thay gìn giữ tốt hoài hai tai,
Lành thay gìn giữ lưỡi ngay,
Lành thay giữ mũi không say đắm mùi.
Lành thay gìn giữ thân này,
Lành thay gìn giữ cho ngay thẳng lời,
Lành thay gìn giữ cả rồi,
Tỳ-kheo được vậy xa lìa khổ đau."
Thông điệp của Đức Phật không nhằm dạy con
người chạy chốn sợ hãi tội lỗi nhưng nhằm khuyến khích con người vượt qua và
chiến thắng tội lỗi và khổ đau. Triết lý này còn được thể hiện trong câu kệ thứ
183 của Kinh pháp Cú:
"Mọi điều ác độc không làm,
Hạnh lành thành tựu lại càng an vui,
Tâm trong sạch sáng ngời,
Là lời Phật dạy cho đời xưa nay."
Các nguyên tắc đạo đức của Phật giáo thích
ứng không chỉ cho từng cá nhân mong muốn chấm dứt khổ đau và đạt được niết-bàn
nhưng đồng thời cũng nhằm mang lại sự tiến bộ và thịnh vượng chung cho toàn
nhân loại. Đối với một quốc gia, con đường trung đạo là tiến trình chính trị
dựa trên đối thoại, hợp tác và hòa giải lẫn nhau. Nó nhằm hướng đến sự thống
nhất và vì lợi ích lớn nhất cho số đông. Nó đòi hỏi những tranh luận và thảo
luận dân chủ dựa trên tư duy lý trí và lôgíc để nhằm đạt đến sự nhất trí về
những vấn đề liên hệ đến xã hội và con người.
Trong Kinh Đại bát niết-bàn, thuộc Kinh
Trung bộ, Đức Phật dạy về một xã hội dân chủ. Tôi xin được trích dẫn ra đây một
đoạn Kinh trong bài Kinh trên để trình bày điều tôi cho là vô cùng quan trọng
đối với tất cả chúng ta, những người đang nỗ lực để đạt được tiến bộ trên con
đường dân chủ. Mỗi tư tưởng trong đoạn Kinh này chứa đựng đầy ý nghĩa sâu xa,
đáng để phân tích và ứng dụng:
"Này các Tỳ-kheo, ta sẽ dạy về lợi ích
của một đời sống cộng đồng, hãy lắng nghe cho kỹ. Cho đến khi nào các Tỳ-kheo
thường gặp nhau, thường hội hợp trong tinh thần đoàn kết, giải tán trong tinh
thần đoàn kết vì Tăng đoàn và vì Phật giáo; cho đến khi nào các Tỳ-kheo không
hủy bỏ những gì mà kinh nghiệm cho thấy là thiện, và không giới thiệu những gì
ngoài trừ những vấn đề đã được chứng nghiệm cách cẩn trọng; cho đến khi nào các
trưởng lão thi hành công bằng; cho đến khi nào các Tỳ-kheo cung kính tôn trọng
và ủng hộ các bậc tôn túc và lắng nghe những giáo huấn đúng chánh pháp của họ;
cho đến khi nào các Tỳ-kheo không phí uổng thì giờ vào những việc thảo luận vô
ích, không lười biếng trong tu học; cho đến khi nào các Tỳ-kheo chuyên cần tu
tập bảy pháp đem lại sự giác ngộ như tầm cầu chân lý (trạch pháp), tinh tấn,
hỷ, chân thành, kiểm thúc thân tâm, thiền định và xả...cho đến khi ấy Tăng-già
mới đảm bảo không suy tàn và trở nên thịnh hành. Chính vì thế, này các Tỳ-kheo,
hãy sống với chánh tín, chân thành trong tư tưởng, sợ hãi những lỗi lầm, cần
cầu học tập, kiên định trong ý chí, năng động trong tinh thần và tràn đầy trí
tuệ."
Ngoài việc nhấn mạnh đến hành vi chân chánh
và thảo luận dân chủ, Đức Phật tin tưởng xác quyết rằng không có quyền lực
tuyệt đối nào về sự lãnh đạo Tăng đoàn có thể ngự trị trong bất kỳ thành viên
Tăng-già nào. Khi các vị đệ tử của hỏi về vấn đề ai sẽ là người thay thế Như
Lai lãnh đạo Tăng đoàn, Đức Phật đã trả lời rằng chỉ có chánh pháp, quy luật
muôn đời, có thể đảm nhiệm chức năng đó. Lời khải thị này dù trải qua hơn 2500
năm vẫn có giá trị vô song cho thời đại chúng ta hôm nay. Hơn thế nữa, lời dạy
ấy đã được thi hành trong thiết chế chính trị của chúng ta, trong các hội đoàn
dân chủ của chúng ta và còn là nguồn khích lệ và khai thị vĩnh hằng. Tôi xin
dẫn chứng cho các bạn một trong rất nhiều ví dụ cho thấy những gốc rễ sâu xa của
Ấn Độ hiện đại trong truyền thống và đặc tính tinh thần dân tộc Ấn Độ cổ đại.
Cách thế tiếp cận dân chủ là nhằm bắt cầu
và hòa giải những dị biệt về quan điểm, ngay cả đối với những quan điểm sung
đột bạo động, thông qua đối thoại. Đây là điều Đức Phật đã khuyên dạy chúng ta
trong Kinh pháp Cú:
"Hận thù không thể được tháo gở bằng
những phương thức trả đũa hay những hành vi cừu địch mà chỉ có thể bằng tình
thân ái, tình thương vô biên và lòng hỷ xả. Đây là quy luật ngàn đời." (Kệ
5).
Một trong những giáo nghĩa thiêng liêng của
con đường sống dân chủ đặt trên nền tảng lý trí và logic do Đức Phật chỉ dạy là
Ahimsa, tinh thần bất bạo động và yêu chuộng hòa bình. Và do đó, truyền thống
đạo Phật mở rộng và tôn trọng các dòng tư tưởng và triết học khác nhau trên thế
giới:
Tinh thần vĩ đại này được ghi lại trong một
tấm bia ký trên đá ở Shahbazgarhi (nay là Peshawar) do đại đế A-dục dựng. Sau
đây là một đoạn trích từ tấm bia ký nêu trên:
"Sức mạnh tinh thần có thể được nâng
cao bằng nhiều hình thức khác nhau. Nhưng điều căn bản và quan trọng nhất là
kiểm thúc lời nói của mình, tránh miệt thị tôn giáo khác, đề cao tôn giáo mình
hoặc đề cập đến trong những dịp không thích hợp. Vì trong những dịp thuận lợi,
người của tôn giáo khác cần được tôn trọng cách thích đáng. Trong cách thế cư
xử như vậy, người ta một mặt tôn trọng tôn giáo của mình và mặt khác giúp người
của tôn giáo khác tôn trọng tôn giáo của họ. Cư xử trái với điều này, người ta
sẽ làm thương tổn tôn giáo của mình và đồng thời gây tác hại đến tôn giáo của người
khác. Những ai tôn trọng tôn giáo của mình mà miệt thị tôn giáo của người khác
hay bơm phòng tôn giáo mình khỏi các tôn giáo khác, chắc chắn làm thương tổn
tôn giáo của họ."
Tôi nghĩ rằng đã đến lúc chúng ta nên tìm
kiếm những chất bổ dưỡng tinh thần từ những lời dạy vàng son của Đức Phật và
ứng dụng chúng vào cuộc sống thường nhật của chúng ta bằng tất cả lòng nhiệt
thành, tinh tấn trong hành vi và nếp nghĩ của chúng ta.
Gắn liền với phương thức tiếp cận lý trí,
trung đạo và hòa hợp này là sự tôn trọng chân giá trị của con người và tình
thương yêu rộng lớn đối với tất cả chúng sanh. Theo Đức Phật, tất cả mọi người
sanh ra đều bình đẳng. Tất cả chúng sanh trên hành tinh này đều cảm nhận đau
khổ và tất cả đều có quyền giải thoát, chứng đắc niết-bàn ngay tại thế. Ngài
phản đối hệ thống giai cấp bất công, phi đạo đức và những cấu trúc thế tập bám
rễ nhiều đời, những thứ giết chết tính sáng tạo và tiến bộ và làm cho con người
chống trái lẫn nhau. Trong Kinh Suttanipata, Đức Phật đã giảng dạy rằng chính
hành vi của con người thông qua lời, ý nghĩ, việc làm, làm cho con người trở
nên cao thượng hay hèn hạ, chứ không thể do di truyền, gia thế hay giai cấp.
Lời dạy tương tự cũng được Đức Phật mô tả trong những vần kệ Pháp Cú sau đây:
Hương thơm của các loài hoa,
Không sao ngược gió bay ra đâu mà.
Nhưng hương đức hạnh thật thà,
Vẫn thường ngược gió lan xa vô ngần.
Tiếng thơm các bậc chân nhân,
Tỏa cùng khắp cõi xa gần nhân gian. (Kệ 54).
Người lành dù ở xa,
Sáng tỏ như núi tuyết.
Kẻ ác dù ở gần,
Như tên bắn ban đêm. (Kệ 305)
Tôi tin rằng tất cả chúng ta đều ít nhiều
quen thuộc với những truyện tích Bổn sanh Bổn sự, kho tàng vô giá của trí tuệ
và tri thức, suối nguồn cung cấp thông tin cho chúng ta về thời đại của Đức
Phật. Các truyện tích minh chứng rằng các thành viên của các giai cấp Ấn Độ
thời ấy đều tìm về Đức Phật và noi theo chánh pháp của Ngài. Chủ nghĩa bình
đẳng và không phân biệt màu da, sắc tộc, giới tính của Đức Phật được phản ánh
trong những lời truyền giáo của Ngài bằng ngôn ngữ quần chúng hơn là bằng ngôn
ngữ cổ điển Sanskrit, thứ ngôn ngữ chỉ dành cho số tinh hoa trí thức.
Thực ra, Đức Phật đã sử dụng ngôn ngữ và
thành ngữ của người thường dân để giải thích những khái niệm sâu xa nhằm giúp
cho người nghe có thể dễ dàng lãnh hội được liền những gì Ngài giảng dạy. Các
dụ ngôn, các phép so sánh và tục ngữ liên hệ đến cuộc sống đời thường của người
dân, chẳng hạn như hương thương của các loài hoa, hình ảnh ngọn núi sừng
sửng...trong Kinh Pháp Cú, đã giúp cho triết lý của Ngài gần gủi với con người
hơn. Đức Phật sử dụng biểu tượng bánh xe đơn giản để dụ cho chân lý cao siêu
của Ngài. Ngài dạy rằng các cây căm của bánh xe được ví như những điều lệ của
hành vi trong sáng, công lý là sự hợp nhất của các cây căm đơn lẻ ấy, trí tuệ
là sự nhẫn nại và khiêm cung, và chánh niệm là trục quay của cả bánh xe.
Sự bênh vực quyền lợi cho những giai cấp bị
chà đạp và tình thương yêu bao la đối với tất cả chúng sanh của đạo Phật cũng
còn được phản ảnh qua sự hảo tâm và bố thí. Một tặng phẩm không chỉ đơn thuần
là một từ thiện mà còn là nơi thể hiện cả một tấm lòng. Tặng phẩm không chỉ là
vật chất mà còn là giáo pháp. Chúng ta cần phải phát huy tinh thần trách nhiệm
giúp đỡ người khác, nhất là người lâm vào cảnh đau khổ và đang cần sự giúp đỡ.
Có thể nói người học trò năng động và nổi tiếng nhất của những lời dạy của Đức
Phật, đại đế A-dục, đã làm nhiều công trình phúc lợi cho đa số trong suốt những
năm tháng trị vì của mình. Ông đã đào đê dẫn nước vào ruộng đồng, xây dựng bệnh
viện, cất nhà tình thương, xây dựng cầu đường như là một phần trách nhiệm và
Dharma của mình. Phục vụ nhân bản đã trở thành yếu tố trọng tâm của quốc túy
chúng ta.
Chúng ta nên làm sống dậy và phát huy
truyền thống này bằng cách truyền bá rộng rãi lời dạy của Đức Phật. Bởi lẽ, nói
cho cùng, chúng ta chỉ có thể phát triển một quốc gia khi chúng ta thay đổi
được cuộc sống khốn khó của những người cùng đinh, người bị áp bức và bị chà
đạp. Phật giáo, trong Ấn Độ cận đại, đã khải bản hợp âm sâu xa, và dưới sự lãnh
đạo tài tình của Bồ-tát sống Babasaheb Ambedkar đã trở thành lực lượng nồng cốt
trong tiến trình giải phóng và tiến bộ xã hội Ấn Độ.
Những lời dạy của Đức Phật về hòa bình và
bất bạo động, bình đẳng và tôn trọng chân giá trị con người đã ảnh hưởng sâu xa
đến những bậc lãnh tụ chính trị đại tài của thế kỷ 20 này. Mahatma Gandhi đã
chuyển triết học bất bạo động của Đức Phật thành năng lực đạo đức và luân lý
hùng mạnh và đem lại độc lập tự do cho dân tộc Ấn. Pandit Nehru đã ứng dụng
triết lý này trong lãnh vực quốc tế và đem lại sự tôn quý của quốc tế đối với
quốc gia và quốc túy của chúng ta. Ông còn ứng dụng triết lý này qua mối tương
giao quốc tế trên nến tảng của các nguyên lý cùng tồn tại hòa bình, bình đẳng,
tôn trọng lẫn nhau, không xăm lăng và không can thiệp vào các vấn đề nội bộ của
nhau. Khái niệm bình đẳng chủ quyền của các quốc gia và sự tương tác trên nền
tảng tôn trọng lẫn nhau cho các hệ thống xã hội, ý thức hệ và văn hóa khác nhau
đã được đưa vào Hiến chương của Liên hợp quốc. Sự ứng dụng các chuẩn mực của lý
trí và giá trị của những vấn đề liên hệ quốc tế đã trở thành tiêu chuẩn đo
lường chất lượng cho chính sách không liên minh của chúng ta.
Trong thời cận đại, khi sự tương thuộc lẫn
nhau phát triển và thế giới được thu nhỏ thành ngôi làng quốc tế với những
phương tiện thông tin đại chúng tốc độ, chúng ta cần phải giữ gìn gốc rễ quốc
túy của chúng ta và kiên định trong việc duy trì, bảo vệ và nâng cao sự an ninh
và lợi ích quốc gia chúng ta. Trong khi chủ chương mở rộng những phát triển mới
về khoa học, kỹ thuật và các lãnh vực khác nhằm đóng góp vào tiến trình tiến bộ
quốc gia, đất nước chúng ta đã phục hồi thật nhanh đủ để chống lại các áp lực
làm yếu chúng ta. Trong mỗi việc làm của chúng ta, chúng ta cần phải duy trì
hòa bình, bất bạo động, giải trừ quân bị và phát triển toàn thế giới.
Một trong những khía cạnh quan trọng của
Phật giáo thích ứng với sinh viên của các Đại học và các viện nghiên cứu là đặt
nặng vào sự theo đuổi cái toàn thiện. Thiết chế của Tăng-già đã truyền sức sống
và năng lực vào đời sống giai điệu của tu viện và Đại học. Và điều này đã ảnh
hưởng sâu rộng đến đời sống thế tục. Hệ thống giáo dục đã thúc đẩy các tiêu
chuẩn thành tựu cao không chỉ đơn thuần ở mặt tinh thần và tri thức nhưng cũng
còn ở các phương diện khác nhau của nghệ thuật, họa, điêu khắc, văn học, y học,
công nghệ, thiết kế và kiến trúc, như Đức Phật đã dạy trong Kinh Pháp Cú:
"Cần phải làm nên làm,
Làm cùng tận khả năng.
Xuất gia sống phóng đảng,
Chỉ tăng loạn bụi đời." (Kệ 313).
Nét đẹp của kiến trúc hang động và tranh vẽ
của Ajanta và sự lộng lẫy của các tháp tại đây và ở Sanchi hoặc sự trang nghiêm
của cung điện Potala ở Lhasa, chứng minh cho sự nỗ lực vì sự hoàn thiện này. Hệ
thống giáo dục của các Phật học viện Phật giáo đã khai sanh các trường đại học
vĩ đại và nổi tiếng khắp thế giới như Nalanda, Vallabhi và Vikramshila. Các học
giả Trung quốc như Huyền Trang, Pháp Hiền đã ghi lại một ảnh hưởng rộng rải của
các trường đại học này. Chủ tịch của trường đại học Vikramshila, tôn giả Dipankar
Srijnana hay Atisa, đã đóng góp rất nhiều công sức trong việc truyền bá Phật
giáo ở Tây Tạng và tài trợ cho việc phiên dịch các tác phẩm Phật học ra tiếng
Tây Tạng. Nhiều quyển trong số các tác phẩm đó đã không còn nguyên bản nhưng
lại còn được duy trì tốt trong bản Tây Tạng.
Có một vấn đề tôi muốn khuyên các bạn đó là
chúng ta hãy nổ lực tìm hiểu cả hai phương ngoại lai và bí truyền của Phật
giáo. Đó chính là các phương diện huyền thoại của lời Phật dạy, nhiều trong số
đó đã hình thành nên khối tổng thể của Phật giáo Tây Tạng, điều cần phải được
phân tích, phiên dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau và cần được trình bày qua
ngôn ngữ giản dị cho quần chúng. Sự đầu tư sớ giải về các phương diện khác nhau
của triết học Phật giáo sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn nội dung, sự hành trì và
nhận chân đúng nguyên lý giảng dạy của Đức Phật ở các nước khác nhau.
Trước khi kết buổi nói chuyện này, tôi xin
nhấn mạnh ở đây rằng chính Mahatma Gandhi, vị lãnh tụ đại tài của dân tộc Ấn
Độ, cũng đã nói về thông điệp của Đức Phật trong bài viết của mình "Young
India" vào ngày 24/10/1927 như sau:
"Lời dạy của Đức Phật , như chính trái
tim của người, đã đang và sẽ còn được mở rộng và được đón nhận và do đó lời dạy
của người đã làm cho pháp thân của người sống mãi và trải rộng khắp bề mặt của
hành tinh."
Như các vị đại đệ tử của Đức Phật, như các
sứ giả của đại đế A-dục và như các tiếng rống sư tử của Sarnath, tôi chân thành
chúc các bạn thành công trong việc truyền bá thông điệp vì hạnh phúc cho đa số
vì an lạc cho đa số của Đức Phật, thông điệp hòa bình, hòa hợp và tình huynh đệ
giữa con người với con người, quốc gia với quốc gia và giữa các dân tộc trên
thế giới.
Thích Tâm Tịnh dịch từ University News, a Weekly Journal of Higher
Education, October 7, 1996, pp 20-26.