CHUYỆN VOI HIẾU DƯỠNG MẸ (Tiền thân Màti - Posaka)

“Cho dù voi chúa phải đi xa”.

Chuyện này Bậc Ðạo Sư kể lại trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỳ-kheo còn mẹ phải cấp dưỡng.

Hoàn cảnh chuyện này cũng giống như chuyện Sàma (số 540, tập VI). Trong dịp này, Bậc Ðạo Sư nói chuyện với chúng Tăng, Ngài bảo:

- Này các Tỳ-kheo, chớ giận Tỳ-kheo này. Ngày xưa, bậc hiền nhân, ngay cả lúc sinh ra từ bụng loài vật và cách xa mẹ mình, cũng không chịu ăn uống gì trong bảy ngày, cứ gầy héo, mỏi mòn. Dù được cung cấp đồ ăn vương giả, vị ấy cũng chỉ đáp : “Không có mẹ ta, thì ta không muốn ăn”. Lúc gặp lại mẹ, vị ấy mới chịu ăn như trươùc.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ :

Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sanh làm Ðại tượng vương ở vùng Tuyết Sơn. Toàn thân Voi màu trắng rất hùng vĩ, là chúa đàn gồm tám mươi ngàn con voi vây quanh Ngài, song mẹ Ngài bị mù. Ngài thường đưa cho bầy voi những quả rừng thật ngon để đem về dâng mẹ. Tuy thế, chúng chẳng đem gì về dâng voi mẹ, mà chúng ăn hết. Khi hỏi thăm và biết được việc ấy, Ngài baûo:

- Ta muốn rời đàn để nuôi mẹ ta.

Thế là một đêm thuận lợi, bầy voi không hay biết, ngài đưa mẹ đến đỉnh núi Candonara (Chiên-đô-già). Tại đó, Ngài để mẹ ở trong một hang dưới đồi, gần một hồ nước và nuôi nấng mẹ raát chu đáo.

Bấy giờ, một người thợ rừng ở Ba-la-nại đi lạc đường và không thể nào tìm lối ra được nên bắt đầu than khóc ầm ĩ. Nghe tiếng này, Bồ-tát thầm nghĩ : “Ðó là một người đang cơ hoạn nạn, khi ta đang ở đây mà gã gặp tai họa, thật chẳng phải lẽ”. Vì vậy, Ngài đến gần gã, song gã bỏ chạy vì quá sợ hãi. Thấy thế, Chúa voi bảo gã :

- Này người kia, anh không cần phải sợ ta, đừng chạy trốn, hãy nói tại sao anh vừa đi vừa khóc thế ?

- Tâu chúa tể, kẻ hèn này bị lạc đường đã bảy ngày qua.

Chúa voi đáp :

- Anh đừng sợ !  Ta sẽ đưa anh ra đường đi của dân chúng.

Sau đó, Ngài bảo người ấy leo lên ngồi trên lưng Ngài và đưa gã ra khỏi rừng, xong Ngài quay về.

Còn con người độc ác kia quyết vào thành phố báo tin cho vua biết. Vì thế, gã đánh dấu các cây cối, các ngọn đồi, rồi tiến về Ba-la-nại. Lúc ấy, vương tượng của Hoàng đế vừa từ trần. Ngài cho truyền lệnh bằng một hồi trống :

- Nếu kẻ nào thấy ở đâu có con voi xứng đáng để Hoàng thượng ngự du thì hãy báo ngay.

Sau đó, gã kia đến triều kiến vua và tâu :

- Tâu Chúa thượng, tiểu thần thấy một con voi tuyệt mỹ, toàn thân màu trắng, một vật tối thắng xứng đáng để Chúa thượng ngự lên. Tiểu thần xin chỉ đường. Song, xin đưa các người quản tượng đi theo để bắt voi.

Vua chấp thuận, bảo một người thợ rừng cùng đi với gã ấy và một đoàn tùy tùng lên đường.

Người thợ rừng cùng đi với gã và trông thấy Bồ-tát đang ăn uống trong một hồ nước. Khi Bồ-tát thấy gã thợ rừng, Ngài nghĩ : “Hiểm họa này, chắc chắn không phát xuất từ ai khác, ngoài kẻ kia. Song, ta rất mạnh, ta coù thể đánh tan tành cả ngàn con voi trong lúc thịnh nộ, ta lại đủ sức tiêu diệt cả đàn voi ra trận của một vương quốc. Tuy nhiên, nếu ta bị lòng phẫn nộ chi phối, thì công đức của ta sẽ bị tổn hại. Vì vậy, hôm nay ta sẽ khoâng nổi giận, cho dù có bị gươm giáo đâm vào da thịt”. Với quyết định này, Ngài cúi đầu, đứng bất động.

Người thợ rừng bước xuống hồ sen, khi thấy vẻ tuyệt mỹ của các chóp ngà voi, gã bảo :

- Này con, hãy đến đây.

Rồi nắm lấy cái vòi giống như sợi dây thừng bằng bạc, gã dẫn Voi về thành Ba-la-nại trong vòng bảy ngày.

Khi mẹ Bồ-tát thấy con mình không trở về, bà đoán chắc hẳn Ngài bị quan quân nhà vua bắt rồi, bà than khóc :

- Giờ đây cây cối vẫn mọc, song con ta đã đi xa rồi.

Và bà đã ngâm hai vần kệ sau :

1.Dù cho Voi chúa phải đi xa,

Dược thảo, nhũ hương vẫn mọc ra,

Lúa cỏ, trúc đào, cùng súng trắng,

Kèn xanh chỗ khuất vẫn đơm hoa.

 

2.Tượng vương hẳn đến tận phương nao,

Sung túc nhờ bao kẻ tước cao,

Trang điểm ngọc vàng vua chúa cỡi,

Oai hùng thắng địch thủ mang bào.

Bấy giờ, người luyện voi kia, đang lúc còn đi đường đã gởi về triều một tờ sớ dâng vua. Nhà vua liền ra lệnh cả kinh thành trang hoàng thật lộng lẫy. Người luyện voi dẫn Bồ-tát vào một cái chuồng được tô điểm bằng các dây tua, tràng hoa và vây quanh mỗi bức màn đủ màu rực rỡ, xong đến trình nhà vua. Vua mang các món cao lương mỹ vị ra bảo đưa cho Bồ-tát, nhưng Ngài không ăn chút nào cả : “Nếu không có mẹ ta, ta không muốn ăn gì đâu”.

Vua van nài Ngài ăn và ngâm vần kệ thứ ba :

3.Nào ăn đi một miếng, Voi này,

Ðừng có buồn chi, chớ héo gầy,

Ðể phụng sự vua, còn lắm việc

Mà Voi sẽ đảm trách sau này.

Nghe vậy, Bồ-tát ngâm vần kệ thứ tư :

 

4.Không, trên đỉnh núi Chiên-đồ-gia,

Khốn khổ bà kia, mắt lại lòa,

Dậm một chân vào gốc cổ thụ

Vì không Voi chúa, ấy con bà.

Vua ngâm vần kệ thứ năm để hỏi ý nghĩa lời Ngài :

5. Ai ở trên đồi Chiên-đồ-gia

Nào ai khốn khổ, lại mù lòa ?

Dậm chân vào một gốc cây nọ,

Vì chẳng chúa Voi, con của bà ?

Voi đáp lời qua vần kệ thứ sáu:

6. Mẹ ta trên núi Chiên-đồ-gia

Khốn khổ, mù lòa thật xót xa,

Dậm một chân vào gốc cổ thụ,

Bởi vì Voi chúa ấy là ta.

Khi nghe nói vậy, vua liền cho Ngài được tự do và ngâm vần kệ thứ bảy :

7. Voi hùng phụng dưỡng mẫu thân mình,

Nên thả tự do, cứ mặc tình,

Thôi để Voi đi về với mẹ

Và cùng sum họp với gia đình.

Vần kệ thứ tám và thứ chín là xuất phát từ trí tuệ tối thắng của Ðức Phật :

8. Khỏi cảnh giam cầm được thoát thân,

Hết dây ràng buộc chúa Voi rừng,

Vài lời khuyên nhủ cùng vua ấy, (1)

Voi trở về nơi chốn núi ngàn.

 

9. Rồi xuống hồ kia mát lạnh trong

Nơi này, Voi vẫn tới bao lần,

Dùng vòi hút nước từ hồ ấy

Tung vẫy khắp mình của mẫu thân.

Song, mẹ của Bồ-tát tưởng là trời bắt đầu mưa, nên ngâm vần kệ thứ mười để trách cơn mưa :

10. Ai đó đem mưa thật trái thời

Thần nào độc ác quá, trời ơi !

Vì nay con trẻ đà đi vắng

Con trẻ xưa thường phụng dưỡng tôi.

Lúc ấy, Bồ-tát ngâm vần kệ thứ mười một để trấn an mẹ :

 

11. Sao mãi nằm kia vậy, mẹ ơi !

Này đây con mẹ đã về rồi,

Ca-thi Ðại đế, ngài thông tuệ,

Cho trẻ bình an được tái hồi.

Bà mẹ liền đáp lời, cảm tạ vua qua vần kệ cuối cùng :

12. Vạn tuế trường tồn đấng Ðại vương !

Cầu ngài đem lại nước hùng cường,

Tự do ngài trả cho con đó,

Với mẹ, con tròn vẹn kính thương !

Vua rất hoan hỷ về đức độ của Bồ-tát nên ra lệnh xây một thị trấn không xa hồ ấy vaø nhà vua thường đến phụng sự Bồ-tát cùng mẹ Ngài. Sau đó, khi mẹ Ngài từ trần, Ngài đi thật xa đến một tinh xá tên là Karandata. Tại đây, có năm trăm bậc Trí giả an trú và vua thường đến cúng dường chư vị ấy. Vua lại truyền tạc một tượng bằng đá có hình Bồ-tát và thường đến chiêm bái để tỏ lòng ngưỡng mộ Ngài. Dần dần, dân chúng khắp cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ) tụ tập lại đó, cùng nhau cử hành ngày hội gọi là Hội Voi.

Khi Bậc Ðạo Sư chấm dứt pháp thoại, Ngài tuyên thuyết các Sự thật và nhận diện tiền thân :

- Bấy giờ, lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỳ-kheo phụng dưỡng mẹ đã an trú vào quả Dự Lưu.

- Vào thời ấy, Ànanda là nhà vua; Mẫu hậu Mahaø Màyà là mẹ Voi và chính ta là chúa Voi đã nuôi dưỡng mẹ mình.

NHẬN XÉT:

Hiếu hạnh là một trong những đức tính được Ðức Phật đề cao trong đời hiện tại cũng như trong các tiền thân của Ngài.

Mỗi khi nghe nói có một Tỳ-kheo phải cấp dưỡng cha mẹ già, dù đã xuất gia theo đạo Giải thoát, Ngài đều tán thán vị ấy và kể một chuyện tiền thân để chứng minh lòng hiếu thảo. Ðó cũng là một trong những đức tính mà Bồ-tát tiền thân của Ngài đaõ thể hiện ở nhiều hình thức tái sinh : Chim muông, thú vật hay loài người.

Bồ-tát đã từng làm chim Anh vũ hiếu thảo trong tiền thân “Cánh Ðồng Lúa” (số 484), là Nai hiếu thảo trong tiền thân “Sàma” (số 540) và với lòng hiếu thảo trong tiền thân này.

Qua các tiền thân trên, Bồ-tát đã thể hiện lòng hiếu thảo cao độ ngay khi bị bắt vào thòng lọng hay khi sắp bị bắn hoặc đã bị trọng thương. Ngài không hề nghĩ đến nỗi đau khốc liệt của chính bản thân, mà chỉ nghĩ đến nỗi đau khổ của cha mẹ già yếu hoặc mù lòa không thể kiếm sống nếu Ngài phải chết trước.

Chính lòng hiếu thảo đặc biệt ấy đã cảm hóa được những vị chủ nhân hoặc những vị vua bắt Ngài, khiến cho họ tràn đầy xúc động liền thả Ngài được tự do. Rồi từ đó về sau, họ chuyên tâm thực hành Ngũ giới và Thập thiện để được tái sinh cõi trời.

Nhân dịp lễ Vu Lan tượng trưng ngày Báo hiếu của mọi người con Phật, tôi xin gởi đến các đạo hữu gần xa câu chuyện Tiền thân đầy Ðạo vị này, là một trong những chuyện cổ tích khích lệ mọi người thực hành một đức tính mà Bồ-tát, tiền thân Ðức Phật, đã thể hiện qua biết bao đời sống trước khi thành Phật.


(1) Bồ-tát khuyên vua hành trì Ngũ giới và Thập thiện trước khi từ giã.

 

GS. Trần Phương Lan

HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP. HCM

TĂNG NI SINH KHÓA V

Số 1. Ðặc san kỷ niệm Mùa Vu Lan PL.2546


alt