DỊCH PHẦN DẠY PHÁP CỦA NGÀI PA-AUK TẠI FLORIDA THÁNG 4/ 2006, BUỔI DẠY THỨ 4
(có kèm bản nghe và đánh máy tiếng Anh bên dưới)
Xin hãy đãnh lễ đến Đức Phật bằng cách tụng NamoTassa 3 lần:
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa (3lần)
Tôi sẽ dạy về Niệm Hơi Thở. Tôi phải lặp đi lặp lại. Có nhiều vấn đề, tiếng Anh của tôi tệ quá, họ không hiểu tiếng Anh của tôi, đây là một vấn đề. Tôi muốn trích dẫn phần dạy về Niệm Hơi Thở do Đức Phật dạy trong bài kinh Đại Niệm Xứ:
“Dīghaṁ vā assasanto ‘dīghaṁ assasāmī’ti pajānāti,
dīghaṁ vā passasanto ‘dīghaṁ passasāmī’ti pajānāti.”
Đây là giai đọan 1.
Nghĩa của nó là gì?
“Hít vào một hơi thở dài, vị ấy biết tôi đang hít vào một hơi thở dài,
Thở ra một hơi thở dài, vị ấy biết tôi đang thở ra một hơi thở dài”. Đây là giai đọan 1.
Giai đọan 2 là:
“Rassaṁ vā assasanto ‘rassaṁ assasāmī’ti pajānāti,
rassaṁ vā passasanto ‘rassaṁ passasāmī’ti pajānāti.”
“Hít vào một hơi thở ngắn, vị ấy biết tôi đang hít vào một hơi thở ngắn,
Thở ra một hơi thở ngắn, vị ấy biết tôi đang thở ra một hơi thở ngắn”. Đây là giai đọan 2.
Giai đọan 3 là:
‘Sabbakāyapaṭisaṁvedī assasissāmī’ti sikkhati,
‘Sabbakāyapaṭisaṁvedī passasissāmī’ti sikkhati
“Kinh nghiệm trọn vẹn thân hơi thở, tôi sẽ hít vào, như thế vị ấy luyện tập.
Kinh nghiệm trọn vẹn thân hơi thở, tôi sẽ thở ra, như thế vị ấy luyện tập”. Đây là giai đọan 3.
Giai đọan 4 là:
“Passambhayaṁ kāyasaṅkhāraṁ assasissāmī’ti sikkhati,
Passambhayaṁ kāyasaṅkhāraṁ passasissāmī’ti sikkhati”
“An tịnh thân hơi thở, tôi sẽ hít vào, như thế vị ấy luyện tập,
An tịnh thân hơi thở, tôi sẽ thở ra, như thế vị ấy luyện tập” Đây là giai đọan 4.
Bốn giai đọan này dẫn đến đạt tới Tứ thiền. Phần giải thích này để thực hành thiền Chỉ, Samatha. Vậy là trong việc thực hành thiền Chỉ này, có 4 giai đọan:
1. Hơi thở dài
2. Hơi thở ngắn
3. Trọn vẹn thân hơi thở
4. An tịnh hơi thở
Khi đang thực hành Ānāpāna theo 4 giai đọan này, với một số hành giả khi đang thực hành để hiểu rõ hơi thở dài và hơi thở ngắn, lúc ấy nimitta có thể xuất hiện; đối với một số hành giả khác, khi đang thực hành hiểu rõ hơi thở dài, hơi thở ngắn và trọn vẹn thân hơi thở, lúc đó nimitta cũng có thể xuất hiện. Với một số hành giả nữa, khi đang thực hành thấy trọn vẹn hơi thở dù nó là dài hay ngắn, lúc đó nimitta mới có thể xuất hiện. Nhưng cũng có số hành giả khi thực hành đến giai đọan an tịnh thân hơi thở chỉ lúc ấy nimitta mới xuất hiện.
Sự khác nhau của các giai đọan này là gì? Khi thực tế thực hành, chỉ có 2 lọai hơi thở: hơi thở dài và hơi thở ngắn. Dù là hơi thở dài hay hơi thở ngắn, hành giả phải cố gắng hiểu rõ trọn vẹn thân hơi thở: khi nó dài, vị ấy nên gắng biết rõ trọn vẹn thân hơi thở; khi nó ngắn, vị ấy nên gắng biết rõ trọn vẹn thân hơi thở. Khi thực hành theo cách này lúc định phát triển sâu hơn thì hơi thở sẽ trở nên vi tế, điều này là tự nhiên. Khi hơi thở trở nên vi tế, lúc này, vị ấy nên gắng hiểu rõ 4 giai đọan kết hợp cùng nhau; 4 giai đọan có nghĩa hơi thở dài, hơi thở ngắn, trọn vẹn thân hơi thở và an tịnh thân hơi thở. Bằng cách nào? Khi hơi thở trở nên vi tế, lúc này vị ấy chỉ nên gắng hiểu rõ trọn vẹn thân hởi thở dài và vi tế dài ấy hay trọn ven thân hơi thở ngắn và vi tế ngắn ấy mà thôi. Khi hơi thở trở nên vi tế, lúc này nếu vị ấy có thể định trên hơi thở vi tế, không bao lâu nimitta sẽ xuất hiện. Khi nimitta xuất hiện, nimitta và hơi thở sẽ hòa quyện và xáp nhập thành một. Lúc này tâm tự động dính chặt vào nimitta, vị ấy chỉ nên tập trung vào nimitta mà thôi. Khi nimitta trở thành Paṭibhāga nimitta, tợ tướng và nếu vị ấy có thể tập trung trên tợ tướng ấy, rồi định an chỉ sẽ xuất hiện, an chỉ định ấy được gọi là định bậc thiền, định Sơ thiền mà thôi. Tối qua, tôi đã giải thích về Sơ thiền này rồi. Nếu qúy vị đã xong phần 5 Pháp thuần thục trong Sơ thiền, nếu quý vị muốn tiến lên Nhị thiền, quý vị nên thực hành như thế nào? Qúy vị nên gắng hiểu rõ 2 khuyết điểm của Sơ thiền và 1 ưu điểm của Nhị thiền. 2 khuyết điểm của Sơ thiền là gì?
1. Sơ thiền này rất gần với các triền cái. Có 5 triền cái:
a) Tham dục
b) Sân
c) Trạo cữ
d) Hôn trầm, thụy miên
e) Nghi
Tổng cộng có 5 triền cái. Khi một hay hai hay nhiều triền cái viếng thăm tâm qúy vị, lúc ấy định của qúy vị sẽ thóai giảm. Khi các triền cái này không viếng thăm, định của qúy vị có thể phát triển. Khi định của qúy vị trở nên dần dần sâu hơn, nimitta sẽ xuất hiện, lúc ấy nếu qúy vị có thể tập trung vào nimitta, Định sẽ phát triển, rồi dần dần qúy vị sẽ thấy nimitta chuyển sang Paṭibhāga nimitta, tợ tướng hay quang tướng. Nếu qúy vị có thể tập trung trên tợ tướng thì định của qúy vị sẽ dần sâu hơn nữa. Và không lâu sau, an chỉ định sẽ xuất hiện. Trước giai đọan an chị định, định của qúy vị được gọi là cận định, upacàra samàdhi. Vào lúc cận định, 5 triền cái sẽ không khởi sinh trong tâm quý vị. Cận định và an chỉ định rất gần với nhau. Bởi lý do này khi cận định sinh khởi, các triền cái sẽ biến mất. Cận định và an chỉ định rất gần với nhau. Tương tự, Sơ thiền này cũng rất gần với 5 triền cái. Đây là một trong những khuyết điểm của Sơ thiền. Một khuyết điểm khác nữa: xin hãy suy xét về các thiền chi trở lại: trong số 5 thiền chi, Tầm và Tứ, sự áp tâm (hay hướng tâm) vào đối tượng và sự trụ tâm trên đối tượng, Tầm và Tứ là thô tháo. Qúy vị phải áp tâm mình vào tợ tướng hơi thở lặp đi lặp lại vì nếu không thể áp tâm vào đối tượng tợ tướng lặp đi lặp lại, định của qúy vị sẽ thóai giảm. Vì vậy mà sự áp tâm vào đối tượng này là còn thô tháo, vì qúy vị còn muốn định của mình sâu hơn nữa. Không cần áp tâm vào đối tượng tợ tướng mà nếu qúy vị vẫn có thể định trên đối tượng tợ tướng, sẽ rất tốt. Qúy vị nên suy xét sự khuyết điểm của Tầm và Tứ như thế. Rồi đến suy xét một ưu điểm, một ưu điểm là tính an tịnh của 3 thiền chi, 3 thiền chi là Hỷ, Lạc và Nhất tâm, 3 thiền chi này an tịnh hơn, chúng là các thiền chi của Nhị thiền. Nhị thiền chỉ có 3 thiền chi, nên chúng an tịnh hơn. Sau khi suy xét như vậy, qúy vị nên tập trung trở lại vào đối tượng tợ tướng, nhưng thời gian suy sét chỉ nên kéo dài khỏang 2 hay 3 giây thôi, nếu lâu, tợ tướng sẽ mất, vậy thời gian suy sét chỉ nên mất vài giây mà thôi. Sau khi suy xét nếu qúy vị tập trung trở lại vào đối tượng tợ tướng của hơi thở, an chỉ định có thể sinh khởi trở lại. Đối với một số thiền sinh mới bắt đầu, an chỉ định này chỉ là định Sơ thiền. Qúy vị nên trú trong định này cho được 5 hay 10 phút. Xuất khỏi định ấy, khi đang trực tri các thiền chi, lúc ấy qúy vị sẽ thấy Tầm và Tứ là thô tháo; Hỷ, Lạc, Nhất tâm là an tịnh hơn. Lúc ấy với ý định muốn lọai bỏ các thiền chi còn thô tháo và chỉ giữ lại các thiền chi an tịnh hơn, là các thiền chi của Nhị thiền, qúy vị tập trung trở lại vào đối tượng Tợ tướng của hơi thở. Lúc tập trung trở lại vào tợ tướng của hơi thở, không lâu sau, an chỉ định sẽ sinh khởi, lúc ấy qúy vị sẽ hiểu Tầm, sự áp tâm lên đối tượng và Tứ, sự trụ tâm trên đối tượng tợ tướng của hơi thở biến mất, chỉ còn lại 3 thiền chi : Hỷ, Lạc và Nhất tâm. Lúc ấy, qúy vị có thể nói qúy vị đã đạt đến Nhị thiền. Nếu đạt đến Nhị thiền, qúy vị cũng nên duy trì Nhị thiền trong một thời gian dài. Với người mới bắt đầu, nếu muốn lên Nhị thiền, họ nên thiết lập lại Sơ thiền cho được 1 giờ. Xuất khỏi Sơ thiền, họ nên suy xét 2 khuyết điểm và 1 ưu điểm , sau đó mới nên cố gắng đạt đến Nhị thiền. Nếu quý vị đã đạt được Nhị thiền, thời thiền tọa kế tiếp, nếu muốn lên Nhị thiền, qúy vị nên thực hành có hệ thống: trước tiên, qúy vị phải tái thiết lập Sơ thiền, lúc ấy trú trong Sơ thiền cho được 4 hay 5 phút. Xuất khỏi Sơ thiền, qúy vị nên đi lên Nhị thiền, trú trong Nhị thiền cho được hơn 1 giờ hay 2 giờ... Rồi quý vị cũng nên cố gắng thực hành 5 Pháp thuần thục của Nhị thiền theo cách tương tự đã đề cập với Sơ thiền. Rồi nếu muốn lên Tam thiền, qúy vị nên gắng hành sao? Qúy vị nên vào Sơ thiền trong vài phút, 2 hay 3 phút, rồi vào Nhị thiền cho được gần 1 tiếng. Xuất khỏi Nhị thiền, qúy vị nên suy xét 2 khuyết điểm và 1 ưu điểm . 2 khuyết điểm đó là:
1. Qúy vị nên suy xét: “Nhị thiền này gần với kẻ địch của Sơ thiền, đặc biệt là Tầm và Tứ. Vì Tầm và Tứ còn thô tháo. Do bởi tính thô tháo này, Sơ thiền rất dễ thất thối. Tương tự vậy, Nhị thiền này cũng gần với kẻ địch Tầm và Tứ. Đây là một bất lợi.
2. Thêm nữa, xin hãy suy xét về Hỷ, Hỷ còn thô tháo, khi Hỷ mạnh lúc ấy tâm không thể vững trụ. Do bở Hỷ này mà cảm xúc sinh khởi, do còn cảm xúc, định không thể đủ sâu. Thế là Hỷ còn thô tháo. Do tính thô tháo này, Nhị thiền cũng có thể dễ dàng thối thất. Đây là một khuyết điểm khác nữa.
Về một ưu điểm : xin hãy suy xét Lạc và Nhất Tâm: Lạc và Nhất tâm tĩnh lặng hơn, hai thiền chi này là hai thiền chi của Tam thiền. Sau khi suy xét như thế, qúy vị liền tập trung trở lại vào tợ tướng của hơi thở, không lâu sau an chỉ định sẽ sinh khởi. An chỉ định này với người mới bắt đầu chỉ có thể là định Nhị thiền thôi. Qúy vị nên trú trong Nhị thiền này khỏang 5 hay 10 phút. Xuất khỏi Nhị thiền, qúy vị nên ôn tầm các thiền chi của Nhị thiền, sẽ thấy Hỷ còn thô tháo và Lạc và Nhất tâm tĩnh lặng hơn. Lúc ấy để lọai bỏ thiền chi thô tháo Hỷ và giữ lại các tịnh thiền chi Lạc và Nhất tâm, qúy vị nên tập trung trở lại vào Tợ tướng của hơi thở. Khi qúy vị tập trung vào Tợ tướng trở lại, không bao lâu an chỉ định sẽ xuất hiện, an chỉ định này có thể là Tam thiền. Nếu đó là Tam thiền, quý vị sẽ dễ dàng hiểu được là Hỷ biến mất và chỉ còn lại Lạc và Nhất tâm, lúc ấy qúy vị có thể nói rằng đã đạt đến Tam thiền. Nếu qúy vị đã đạt đến Tam thiền, thời thiền tọa kế tiếp qúy vị nên thực hành một cách có hệ thống: trước tiên qúy vị nên thiết lập lại Sơ thiền trong vài phút, 2 hay 3 phút và nhị thiền 2 hay 3 phút thôi, rồi qúy vị nên đạt đến Tam thiền theo cách tương tự. Qúy vị nên thiết lập Tam thiền cho được 2 hay 3 giờ và thực hành lại 5 Pháp thuần thục. Nếu đã thỏa mãn, nếu muốn lên Tam thiền, qúy vị nên nổ lực như thế nào? Qúy vị nên thiết lập lại Sơ thiền trong vài phút, 2 hay 3 phút gì đấy, Nhị thiền trong 2 hay 3 phút gì đấy, Tam thiền trong gần 1 giờ. Xuất khỏi Tam thiền, qúy vị nên suy xét 2 khuyết điểm và 1 ưu điểm . Hai khuyết điểm là:
1. Qúy vị nên suy xét về Tam thiền: Tam thiền này gần với kẻ địch Hỷ hay Nhị thiền vì qúy vị rất dễ thối thất xuống Nhị thiền.
2. Còn một khuyết điểm nữa, xin hãy suy xét các thiền chi: Lạc và Nhất tâm, hãy suy xét Lạc là còn thô hơn, tại sao? Khi đang ghi nhận một đối tượng, nếu tâm còn cảm thấy an lạc (Lạc), thì tâm này còn chưa tịch tịnh. Bởi Lạc này mà bậc thiền của qúy vị có thể dễ dàng bị thối lui xuống Nhị thiền. Nếu một người có sự an lạc mạnh, tâm không thể tịnh tĩnh được, Lạc còn thô là vì vậy. Vì tính thô này mà qúy vị có thể dễ dàng rớt khỏi bậc thiền. Đây là một bất lợi.
Tiếp theo qúy vị nên suy xét về một ưu điểm : một ưu điểm là khi suy xét Xả và Nhất tâm. Xả là tâm trung dung hay cảm thọ xả và Nhất tâm là sự hợp nhất, hai thiền chi này rất an tĩnh. Hai thiền chi này là hai thiền chi của Tứ thiền.
Sau khi suy xét như thế, qúy vị nên tập trung trở lại vào Tợ tướng của hơi thở. Không lâu sau, an chỉ định sẽ khởi sinh trở lại. Qúy vị nên trú trong an chỉ định đó cho được 5 hay 10 phút. An chỉ định này chỉ có thể là định Tam thiền. Xuất khỏi Tam thiền, qúy vị nên ôn tầm các thiền chi, lúc ấy qúy vị sẽ thấy Lạc còn thô, Xả và Nhất tâm, hai thiền chi này tịnh tĩnh hơn. Lúc ấy với ý định lọai bỏ thiền chi thô và giữ lại hai thiền chi tịnh tĩnh hơn; Xả và Nhất tâm là hai thiền chi của Tứ thiền. Qúy vị nên tập trung trở lại vào tợ tướng của hơi thở. Khi tập trung vào Tợ tướng trở lại, không lâu sau an chỉ định sẽ xuất hiện, an chỉ định này có thể là định Tứ thiền. Lúc ấy qúy vị sẽ hiểu cảm giác an lạc đã biến mất, chỉ còn lại Xả và Nhất tâm, hai thiền chi có mặt trong Tứ thiền. Nếu Tứ thiền của qúy vị là chắc thật như vậy, lúc ấy hơi thở của qúy vị sẽ dừng lại hòan tòan, không còn việc thở nữa.
Vậy tổng cộng có 4 bậc thiền : Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền. Tứ thiền này có thể sản sinh ra ánh sáng rất mạnh, Sơ thiền cũng có thể sản sinh ra ánh sáng, nhưng không sáng bằng. Tứ thiền, ánh sáng rất sáng và rực rỡ, ví dụ như với Đại Đức Anuruddha, Tứ thiền có thể sản sinh ra ánh sáng rực rỡ chiếu đến 10 ngàn thế giới hay 1 ngàn thế giới, rất mạnh đúng không... Vì vậy ánh sáng Tứ thiền là rất mạnh. Với một số hành giả, ánh sáng trí tuệ này có thể soi đến 2 hoặc 3 dặm, 4 hoặc 5 dặm hay 10 dặm, v.v.. Với Tứ thiền, ánh sáng này rất sáng và mạnh. Với sự trợ giúp của ánh sáng này, nếu qúy vị trực tri sắc pháp, danh pháp và các nhân của chúng, qúy vị có thể dễ dàng liễu tri đựơc chúng. Sắc pháp và danh pháp là Sự thật tối thương về Khổ, hay Khổ đế Pháp; nhân của chúng là Khổ tập Pháp, Sự Thật tối thượng về nguyên nhân của Khổ. Hai Sự thật tối thượng này được gọi là các Hành, Saṅkhāra. Các Hành này là đối tượng của Thiền Minh Sát, qúy vị phải quán sát chúng là vô thường, khổ và vô ngã một cách có hệ thống, lúc ấy qúy vị có thể nói, qúy vị đang thực hành Vipassanā một cách hòan hảo. Để liễu tri được sắc pháp, danh pháp và các nhân của chúng là vô thường, khổ và vô ngã, ánh sáng trí tuệ mạnh là cần thiết. Tứ thiền có thể sản sinh ra ánh sáng trí tuệ rất sáng và mạnh. Nhưng có một số hành giả còn muốn thực hành các Biến xứ (Kasiṇa) và Bát thiền. Nếu muốn thực hành các biến xứ và Bát thiền, lúc đó, qúy vị nên trực tri 32 thân phần như là: tóc, lông, móng, răng,v.v.. một cách rõ ràng. Lúc này nếu muốn thực hành các biến xứ, họ có thể hành 4 biến xứ màu, ví dụ như họ có thể lấy “tóc” làm đối tượng đề hành biến xứ “đen” Nīla. Biến xứ Nīla họ dịch có nhiều cách: vài người dịch là biến xứ nâu, số khác thì dịch là biến xứ đen, có số nữa dịch là biến xứ xanh đen. Cái nào đúng tôi không rõ nhưng màu tóc, có lọai màu tóc gì ở đây? (cười). Màu tóc của người Á châu, đặc biệt là màu tóc của người Ấn độ. Lấy màu tóc làm đối tượng, qúy vị có thể thực hành biến xứ Đen, lấy màu nước tiểu làm đối tượng, có thể thực hành biến xứ Vàng, lấu màu máu làm đối tượng, có thể thực hành biến xứ Đỏ, lấy khung xương làm đối tượng, có thể thực hành biến xứ Trắng. Nếu qúy vị có thể trực tri 32 thân phần cả về bên trong lẫn bên ngòai, màu tóc bên ngòai cũng có thể làm đối tượng để qúy vị có thể thực hành biến xứ màu, v.v.. Vậy qúy vị có thể thực hành biến xứ màu từ thân phần bên trong hay bên ngòai. Nếu có thể thực hành các biến xứ màu, qúy vị cũng có thể thực hành các biến xứ còn lại.
Nếu có thể thực hành 10 biến xứ đạt đến Tứ thiền, qúy vị có thể đi lên các thiền vô sắc. Nếu qúy vị thực hành Bát thiền, Tám lọai thiền, thiền này rất mạnh và thâm hậu, chúng có thể sinh ra ánh sáng cực sáng và cực mạnh. Vì thế, nếu qúy vị thực hành Tứ Vô Lượng Tâm, Từ, Bi, Hỷ, Xả, rất dễ dàng cho qúy vị.
Hôm nay tôi sẽ dừng bài Pháp tại đây, qúy vị có thể thảo luận với các câu hỏi.
Hỏi: Con nên nhắm mắt hay mở mắt một chút, cách nào tốt hơn. Dù các gì, thì mắt nên hướng về đâu, hướng lên hay xuống dưới, gần hay xa?
Đáp: Nếu có thể quên con mắt đi như thế này, thì tốt hơn (cười), vì mắt khép lại là tốt hơn. Còn lúc quý vị nhắm mắt, đây là mặt đất, mắt lúc này nên hướng lên hay xuống? Có lẽ nếu qúy vị không thể quên đôi mắt đi thì nó là một vấn đề đấy. Còn vấn đề nữa khi nimitta xuất hiện nếu qúy vị có thể tập trung trên nimitta, nimitta sẽ trở nên sáng hơn và ánh sáng trí tuệ bao bọc khắp thân sẽ tỏa sáng đặc biệt chỉ khi qúy vị có thể tập trung vào nimitta tợ tướng này với mắt nhắm. Lúc nimitta sáng bừng lên, ánh sáng này có thể đập vào mắt làm nước mắt chảy ra, lúc ấy định của qúy vị sẽ giảm. Đây là vấn đề. Lại nữa, khi tập trung vào nimitta bằng mắt mở, nếu qúy vị thực hành nhiều ngày, nhiều tháng ở đây sẽ xuất hiện nhiều căng thẳng, mắt của qúy vị sẽ bị đau, đây lại thêm một vấn đề nữa. Bởi cớ ấy, nếu qúy vị có thể quên đi đôi mắt thì tốt hơn, mở một tí hay nhắm thì tốt hơn? Nhắm mắt thì tốt hơn, mở một tí cũng không tốt đâu. Còn khi nhắm mắt, qúy vị nên hướng mắt lên hay xuống? (cười). Ví dụ đây là mắt, đây cũng không tốt. Qúy vị nên quên hết mọi thứ về con mắt, nếu không, qúy vị sẽ gặp trở ngại đấy.
Hỏi: Trong khi tập trung vào đối tượng hơi thở, các cảm giác mạnh như bực dọc, có lỗi, ân hận, phấn khích hay vui sướng liên tục khởi lên. Những cảm giác này quá chi phối tâm con hơn cả các tư duy khái niệm và còn mạnh hơn hẳn. Con nên làm sao trong trường hợp này ạ?
Đáp: Tất cả các bất thiện pháp, nhân gần của chúng là Phi lý tác ý, tức là sự chú ý khuyết điểm(Ayoniso Manasikāra) và tất cả các thiện pháp có nhân gần là như lý tác ý, tức là sự chú ý khôn khéo (Yoniso Manasikāra). Trong khi đang tập trung vào đối tượng hơi thở, nếu có các cảm giác mạnh như nóng giận, có lỗi, nuối tiếc hay phấn khích, v.v..xuất hiện, chúng là các pháp bất thiện. Nóng giận là pháp bất thiện; hối hận, hối tiếc cũng là sự bất hạnh, là bất thiện pháp, phấn khích cũng là một bất thiện pháp, gần như là tâm trạo cử. Vậy đấy là bất thiện pháp, nhân gần của chúng là phi lý tác ý. Đây, lúc nào mà qúy vị chẳng luôn thở, có phải lúc nào qúy vị cũng nổi giận? Qúy vị nên xem xét điều này thật kỹ lưỡng: trong khi đang thực hành niệm hơi thở, khi đang tập trung trên đối tượng hơi thở của bạn, lúc ấy sân giận lại khởi lên, điều này là chỉ do phi lý tác ý, chúng ta gọi là chú ý bất lợi, Ayoniso Manasikāra. Phi lý tác ý là gì? Tất cả các hành là vô thường, nhưng qúy vị có lẽ chú ý tới chúng như là thường hằng, bất biến; tất cả các hành là khổ, nhưng qúy vị có lẽ chú ý tới chúng như là lạc; tất cả các hành là vô ngã, nhưng qúy vị có lẽ chú ý đến chúng như là tự ngã. Đặc biệt, tự ngã, có 2 lọai tự ngã, có thể qúy vị chấp nhận có linh hồn hay tự ngã. Hay qúy vị có thể cho rằng “đây là tôi”, “đây là anh ta”, “đây là bà ta” hay “đây là cha”, “đây là mẹ”, v.v.. Nếu qúy vị chú ý theo cách này, đây được gọi là phi lý tác ý, tức chú ý bất lợi. Do phi lý tác ý nên qúy vị giận dữ. Còn đây do hơi thở (cười), khi quý vị tập trung vào đối tượng hơi thở, sân giận không thể tự động khởi sinh, chỉ là do phi lý tác ý này mà thôi. Tương tự vậy, với lạc, hạnh phúc, khi qúy vị đang tập trung vào đối tượng hơi thở, thông thường khi định phát triển, lúc ấy Lạc sẽ sinh khởi, nhưng không phải tự động; nếu lạc tự động sinh khởi ấy chỉ là do sự chú ý của qúy vị mà thôi.Vậy hãy lọai bỏ phi lý tác ý và thay thế nó bằng như lý tác ý. Như lý tác ý là gì? Chú ý có lợi ở đây là qúy vị nên tập trung vào đối tượng hơi thở của mình như là hơi thở mà thôi, rồi thì vấn đề này sẽ biến mất.
Hỏi: Có những ngày việc thực hành Niệm hơi thở rất tốt, tâm tập trung được trên đối tượng hơi thở và vài dấu hiệu định xuất hiện, nhưng có những ngày chẳng có diễn tiến gì tốt cả có lẽ là do thời tiết xấu, có ngày còn do vấn đề nào đó, v.v.. Chúng ta có thể làm sao vào những ngày việc hành thiền dường như chán chường và tâm rất yếu? Chúng ta phải làm sao để duy trì động lực tiếp tục thực hành? Những điều chỉnh nào cần thực hiện để cải thiện việc hành thiền ạ?
Đáp: Thực hành liên tục là rất cần thiết (cười). Xin hãy đừng nói chuyện, đừng nghĩ ngợi. Chúng là những hiện tượng rất nguy hiểm. Nếu nói chuyện nhiều, định của qúy vị sẽ thối giảm. Còn nếu nghĩ ngợi nhiều, đặc biệt là nếu qúy vị nghiên cứu, trạch pháp quá nhiều, định không thể phát triển. Nếu qúy vị muốn chứng thiền, xin không nói chuyện, không suy nghĩ, không nghiên cứu hay trạch pháp. Khi đang thực hành thiền Qúan, Vipassanā, trạch pháp là rất hữu ích, rất tốt. Nhưng khi hành thiền Chỉ, Samatha, trạch pháp nhiều là không tốt, vì sẽ làm định không thể phát triển. Có 7 giác chi (là các yếu tố hổ trợ giác ngộ):
1. Niệm giác chi
2. Trạch pháp giác chi
3. Tinh tấn giác chi
4. Hỷ giác chi
5. Tịnh giác chi
6. Định giác chi
7. Xả giác chi
Tổng cộng có 7 Giác chi. Trong số Thất giác chi này, Trạch pháp, Tinh tấn, Hỷ là một nhóm; Tịnh, Định, Xả là một nhóm. Niệm ở giữa, tham dự vào cả 2 nhóm. Nếu Trạch pháp, Tấn, Hỷ là mạnh, nhóm Định sẽ yếu đi. Nhóm Định là Tịnh, Định, Xả, 3 giác chi này đuợc gọi là nhóm Định. Trạch pháp, Tấn, Hỷ được gọi là nhóm Trạch pháp, có 2 nhóm. Khi một nhóm trở nên mạnh và rất trội, thì nhóm kia sẽ yếu đi. Vậy nên khi qúy vị đang thực hành thiền Chỉ, Samatha, qúy vị nên cố gắng quân bình 2 nhóm này. Khi nhóm Trạch pháp mạnh, lúc ấy nhóm Định không thể phát triển. Khi thực hành thiền Chỉ Samatha, nếu nhóm Định của qúy vị trở nên vượt trội, điều này cũng tốt. Nhưng nếu đang hành thiền Chỉ, nếu qúy vị có thể quân bình 2 nhóm, thì tốt hơn, không có vấn đề gì. Vậy nên khi thực hành niệm hơi thở, qúy vị nên làm cho 2 nhóm quân bình, nhưng qúy vị có lẽ chưa nhớ 7 Giác chi này. Nếu qúy vị muốn nhớ, vậy qúy vị nên học chúng thì hơn.
Hỏi: Đối với người có kinh nghiệm chứng thiền, trong lúc trú thiền, cô ấy có thể nghe được mình hỏi Đức Phật hay Đức Bồ Tát về 10 lời giải và điều răn. Nếu một người có thiền trú vững chắc, liệu người ấy nhờ lực thiền ấy có khả năng sống thọ hơn và mạnh khỏe hơn không ạ?
Đáp: (Cười) Theo truyền thống Theravàda của chúng tôi, điều này là không thể. Bậc thiền có nghĩa là định trên đề mục thiền của qúy vị mà thôi, ví dụ như khi qúy vị đang tập trung vào tợ tướng của hơi thở, nếu quý vị có thể tập trung vào tợ tướng, lúc ấy quý vị có thể chứng thiền, đạt đến bậc thiền. Nhưng khi nếu qúy vị đang hỏi Đức Phật (cười), lúc này không phải là bậc thiền, đây chỉ là sự tưởng tượng của qúy vị thôi. Qúy vị thấy Đức Phật ở đâu? Qúy vị thấy Đức Phật ở đâu nào? Đức Phật, theo truyền thống Theravàda của chúng tôi, đã nhập Đại Niết Bàn rồi. Đại Niết Bàn nghĩa là tịch diệt. Tịch diệt là gì? Theo như một bài Kinh, Đức Phật giải thích sự tịch diệt bằng một ví dụ: có một ngọn đèn, vẫn còn dầu và tim. Nếu tim cạn và dầu cũng cạn, lửa sẽ tắt. Khi lửa tắt, Lửa này đã đi đâu? Lửa này đã có thể đi đâu kia chứ? Chúng ta không thể nói lửa này đã đi đâu. Chúng ta có thể nói: lửa đã tắt hòan tòan do sự cạn kiệt của tim và dầu ngọn đèn. Tương tự vậy, Đức Phật đã Đại Bát Niết bàn là do sự chấm dứt hòan tòan của các nhân, ngủ uẩn cũng chấm dứt hòan tòan không còn dư sót. A-la-hán đạo của Đức Phật diệt sạch mọi phiền não không còn dư sót. Đặc biệt, trong số các phiền não, Vô minh, Ái (tham đắm đời sống mới) và Thủ (dính mắc vào đời sống mới) là những phiền não nổi bật hơn cả. Đạo lộ A-la-hán này diệt sạch mọi phiền lụy. Do diệt sạch mọi phiền lụy, nghiệp nào mà họ đã tích lũy trước khi trở thành A-la-hán, những nghiệp này không có hiệu lực để tạo tác đời sống mới. Do vậy, chúng ta có thể nói rằng vị A-la-hán này diệt sạch Vô minh, Ái, Thủ, Hành và Nghiệp. Do đã tận diệt hòan tòan các nhân này, Ngủ uẩn sau khi tịch diệt Niết Bàn, không còn tái sinh, sẽ không còn một đời sống mới, các uẩn mới. Vào giai đoạn sau khi Đại bát niết bàn, sau Đại Bát Niết bàn, sẽ không còn uẩn mới nào nữa, không còn một đời sống mới nào nữa. Nghĩa là sau khi Đại Bát niết bàn, Đức Phật sẽ không còn, Ngài tịch diệt còn đâu. Do vậy, làm sao qúy vị có thể thưa chuyện với Đức Phật được? Điều này là không thể có. Đây chỉ là sự tưởng tượng, sự tưởng tượng vô nghĩa.
Câu hỏi thứ hai là nếu một người có thiền chứng thâm sâu, liệu họ có sống lâu hơn được chăng?
Đời sống này phụ thuộc vào nghiệp của vị ấy mà thôi, ví dụ như vào thời Đức Phật, có những vị A-la-hán, sau khi chứng ngộ A-la-hán, họ qua đời, họ tịch diệt, Niết Bàn, như Ngài Bahidda Daruciriya . Ngài là một người nhanh chóng chứng ngộ A-la-hán trong thời Đức Phật của chúng ta. Nhưng ngay khi chứng ngộ A-la-hán, Ngài nhập diệt Niết bàn ngay. Vậy làm sao chúng ta có thể nói được rằng một người có thiền chứng có thể sống lâu? Điều này là không thể, nhưng có thể nếu vị ấy có thể duy trì định bậc thiền cho đến lúc chết, sau đó vị ấy có thể tái sanh lên một trong các cõi Phạm thiên tùy vào bậc thiền của mình. Lúc ở cõi Phạm thiên, vị ấy có thể sống lâu, điều này là có thể. Vậy nếu qúy vị muốn có tuổi thọ lâu dài, qúy vị nên duy trì định bậc thiền của qúy vị cho đến lúc chết không để thối thất.
Hỏi: Khác nhau giữa cận định và Sơ thiền là gì ạ? Và làm cách nào để một hành giả từ cận định tiến lên Sơ thiền? Khi một hành giả xuất khỏi thiền, liệu 5 triền cái có hoàn toàn vắng mặt không ạ? Nếu không, chúng có thể bị đè nén đến mức độ nào ạ?
Đáp: Giữa cận định và bậc thiền, có sự khác nhau. Sự khác nhau? Cận định cũng lấy, ví du với thiền Niệm Hơi thở, Tợ tướng của hơi thở làm đối tựơng, tương tự vậy, Sơ thiền cũng lấy tợ tướng của hơi thở làm đối tượng, đối tượng là giống nhau. Nhưng ở giai đọan cận định, 5 thiền chi chưa đủ mạnh để có thể duy trì định của vị ấy trong một thời gian dài. Nhưng khi vị ấy có thể đạt đến sơ thiền, lúc ấy năm thiền chi rất mạnh và vững chắc thì vị ấy mới có thể duy trì định lâu dài. Ví dụ, một đứa trẻ, khi còn nhỏ, nó không thể đứng vững; với sự giúp sức của cha mẹ, nó có thể đứng được nhưng có thể dễ ngã xuống đất. Cùng cách ấy, ở giai đọan cận định, các thiền chi không đủ mạnh, do đó vị ấy có thể dễ dàng rơi lại vào Bhavanga, hữu phần. Khi rơi vào Hữu phần, rất nhiều thiền sinh nói rằng lúc ấy họ không còn biết gì nữa, tâm đi khỏi đối tượng, nhưng đối tượng gì thì vị ấy không thể nói chính xác được, nếu thường xuyên, vị ấy không thể duy trì định lâu được. Nhưng khi đạt đến bậc thiền, vị ấy có thể duy trì định của bậc thiền lâu dài, do 5 thiền chi lúc này rất vững và mạnh, vững mạnh có nghĩa giống như có thể đứng lâu được.
Còn khi một hành giả xuất khỏi thiền, 5 triền cái có vắng mặt không? Điều này là không thể. Trong thời của Đức Phật, có những hành giả đạt đến các bậc thiền nhưng khi họ xuất khỏi bậc thiền, các triền cái xuất hiện trở lại vì phi lý tác ý thắng thế, một ví dụ là Đại Đức Đề-bà-đạt-đa, khi thực hành thiền Chỉ Samatha trong 3 tháng kiết hạ, vị ấy có thể đạt đến Bát thiền và Ngũ Thông Thế Gian. Nhưng vị ấy quá tham vọng muốn trở thành Đức Phật, muốn sở hữu nhiều vật, muốn đạt được nhiều thứ. Do lòng tham này, thiền của vị ấy bị thối thất và vị ấy không thể thiết lập được định bậc thiền của mình. Vậy do phi lý tác ý mà các triền cái sinh khởi sau khi xuất khỏi thiền. Nhưng nếu vị ấy như lý tác ý liên tục nhiều năm, thì điều này không thể xảy ra, các triền cái sẽ không sinh khởi, một điển hình là Ngài Mahanàga, Ngài đã hành thiền Chỉ và thiền Quán trong 60 năm. Trong vòng 60 năm này, chưa một triền cái nào khởi sinh trong tâm Ngài, do thiền Chỉ Samatha và thiền Quán Vipassanā có thể đè nén các triền cái này trong 60 năm là nhờ Ngài luôn như lý tác ý. Còn Đại Đức Đề-bà-đạt-đa đã phi lý tác ý như trên, vì thế vị ấy không thể duy trì định bậc thiền của mình được. OK?
Hỏi: Khi thực hành Niệm hơi thở, tại sao phải giữ 2 nhóm Thất giác chi quân bình ạ? Liệu chỉ tập trung vào nhóm Định, như Tịnh, Định và Xả để sinh Định được không ạ? Còn nhóm kia như Tấn, và Hỷ, khi ta không suy nghĩ là chúng ta không trạch pháp ạ? Và khi chỉ tập trung vào hơi thở, nó có cố tình tạo ra sự mất quân bình không ạ? Sự mất quân bình này trực tiếp là do sự tiến hành theo quy trình hành thiền phải không ạ?
Đáp: Có lẽ nếu qúy vị có thể tập trung vào tợ tướng của hơi thở một cách trọn vẹn thì không cần thiết phải cố gắng làm cho 2 nhóm này quân bình, nhưng đối với một số hành giả, họ nghiên cứu, trạch pháp quá nhiều: “Cái gì đây?” “Cái gì đây?” “Cái gì đây?”, “Tôi muốn nimitta này dài hơn kia”, “ Tôi chỉ muốn nghiên cứu,”, “Tôi không muốn đạt đến thiền”, “Mong cho nimitta của tôi dài, OK, nó trở nên dài rồi, không có vấn đề gi!”, “mong cho nimitta của tôi là tròn! OK, nó tròn lên rồi!”. Cứ vậy vị ấy chỉ điều tra hay trạch pháp. Nếu làm vậy, qúy vị không thể chứng thiền được. Nhưng nếu qúy vị chỉ tập trung vào nimitta của mình thôi mà không điều tra hay thắc mắc, chỉ tập trung vào đối tượng rồi định sẽ dần sâu hơn, lúc đó qúy vị có thể nói Thất Giác chi của qúy vị là cân bằng, lúc này không cần thiết phải cố gắng làm cho Thất giác chi hay 2 nhóm quân bình.
Hỏi: Cảm xúc gì có liên hệ với tứ đại ạ?
Đáp: Tôi không hiểu câu hỏi này (cười).
Hỏi: Con xin lỗi con phải hỏi câu này ngay mà không kịp viết trên giấy vì nó quan trọng về Thất giác chi và xin lỗi con đã phá lệ. Trong Thanh Tịnh Đạo và Kinh Tứ Niệm Xứ, vì Ngài nói có lúc khi thực hành Niệm hơi thở, Ngài không cần quân bình Thất giác chi. Nhưng trong trường hợp bài kinh...... và bài Kinh Bojjhaṅga Kosalla và bài Kinh..... (đọan này người nghe chép nghe không rõ tên các bài kinh này), theo trong này Ngài phải quân bình chúng, vậy xin Ngài giải thích cho chúng con được không ạ?
Đáp: Có lẽ các bài kinh này khá dài. Chúng là những bài kinh dài, sao tôi giải thích cho kịp.
Hỏi: Không cần ngay bây giờ ạ, lúc trình pháp hay lúc nào ngài thấy tiện ấy ạ.
Đáp: Nói tóm lại, có 7 giác chi, nếu qúy vị có thể quân bình 7 giác chi này là đủ rồi. Nhưng khi hành thiền chỉ Samatha, nếu nhóm Định giác chi trở nên trội, hơi vượt trội, nó cũng OK, không vấn đề gì, qúy vị vẫn có thể chứng thiền nhưng khi...
TRANSCRIPTION IN ENGLISH – PA-AUK SAYADAW’S DHAMMA TALK – APRIL 2006, APRIL 2006, FOURTH TALK
Please pay respect to the Buddha by reciting Namo Tassa 3 times
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa (3 times)
I am talking about Ānāpāna Meditation (AM). I must repeat again and again (laughing). Many problems, my English is very poor so they do not understand my English, this is one problem. I would like to recite Ānāpāna Meditation taught by the Buddha in MahāSatipaṭṭhāna Sutta:
“Dīghaṁ vā assasanto ‘dīghaṁ assasāmī’ti pajānāti,
dīghaṁ vā passasanto ‘dīghaṁ passasāmī’ti pajānāti.”
This is Number 1.
What is the meaning ?
“Breathing in a long breath, he knows I breathe in a long breath,
breathing out a long breath, he knows I breathe out a long breath. This is number 1
Number 2 is:
“Rassaṁ vā assasanto ‘rassaṁ assasāmī’ti pajānāti,
rassaṁ vā passasanto ‘rassaṁ passasāmī’ti pajānāti.”
“Breathing in a short breath, he knows I breathe in a short breath,
breathing out a short breath, he knows I breathe out a short breath. This is number 2.
Number 3 is:
‘Sabbakāyapaṭisaṁvedī assasissāmī’ti sikkhati,
‘Sabbakāyapaṭisaṁvedī passasissāmī’ti sikkhati
Experiencing the whole body of breath, I will breathe in, thus he trains himself
Experiencing the whole body of breath, I will breathe out, thus he trains himself. This is number 3.
Number 4 is:
“Passambhayaṁ kāyasaṅkhāraṁ assasissāmī’ti sikkhati,
Passambhayaṁ kāyasaṅkhāraṁ passasissāmī’ti sikkhati”
“Calming the breath body I will breathe in, thus he trains himself;
calming the breath body I will breathe out, thus he trains himself.” This is number 4.
These four stages lead for attaining up to fourth jhāna stage only. This explanation is for Samatha practice. So in this Samatha meditation practice there are four stages.
1. Long breath,
2. Short breath,
3. The whole body of breath,
4. Calming the breath body or tranquilizing the breath body.
When they are practising Ānāpāna , according to these four stages, for some meditators they are practising to understand long breath and short breath at that time, nimitta may also appear; For some meditators they are practising long breath, short breath, the whole body of breath at that time the nimitta also appears. For many meditators when they practise the whole body of breath whether it is long or short at that time nimitta appears; But for some meditators when they practise number four stage: calming the breath body, at that time only nimitta appears.
What is the difference of these stages? Practically when they are practising Ānāpāna , there are two breaths only: long breath, short breath. Whether it is long or short, a meditator must try to understand the whole body of breath: when it is long, he should try to understand the whole body of breath, when it is short he should try to understand the whole body of breath. When he is practising in this way, when concentration develops further, then the breath will become subtle, this is natural. When the breath becomes subtle, at that time he should try to understand four stages combined together, four stages mean long breath, short breath, the whole body of breath and calming the breath body. How? When the breath becomes subtle, at that time he should try to understand the whole body of subtle long breath or short breath only. So when the breath becomes subtle at that time if he can concentrate on that subtle breath, then very soon nimitta will appear. When nimitta apprears, nimitta and the breath unify together or nimitta and breath become same, at that time mind automatically sticks to the nimitta. When mind sticks to the nimitta, at that time he should focus on the nimitta only. If he can concentrate on the nimitta, when nimitta becomes Paṭibhāga nimitta, counterpart sign, and if he can concentrate on that Paṭibhāga nimitta, counterpart sign, then full absorption may arise, that full absorption is called jhāna absorption, jhāna concentration, first jhāna concentration only, last night I explained about this first jhāna. If you have already this first jhāna’s five masteries, if you want to go to the sencond jhāna how you should try? You should try to see or to understand two disadvantages of first jhāna and one benefit of second jhāna. What are the two disadvantages of first jhāna? This first jhāna is close to the enemy of hindrances. There are five hindrances:
1. Sensual desire
2. Anger (byāpāda)
3. Restless and remorse
4. Sloth and torpor
5. Doubt
Altogether there are 5 hindrances. When one or two or many hindranes are visiting to your mind, at that time your concentration will decrease. When these hindrances are not visiting to your mind, at that time your concentration may develop. When your concentration becomes deeper and deeper and when nimitta appears, at that time if you can concentrate on your nimitta, when your concentration develops then slowly you may see your nimitta become counterpart sign, Paṭibhāga nimitta. If you can concentrate on that counterpart sign, Paṭibhāga nimitta then your concentration will become deeper and deeper. And very soon full absorption may arise. Before full absorption stage, your concentration is called access concentration, Upacāra Samādhi. At the Upacāra Samādhi stage, five hindrances will not arise in your mind. Access concentration and full absorption are very close to each other. Because of this reason when access concentration arise, hindrances will disappear. Access concentration and jhāna concentration are very close to each other. In the same way this first jhāna is also close to five hindrances. This is one disadvantage of first jhāna. Another disadvantage is please reflect jhāna factors again: among five jhāna factors, Vitakka, Vicāra , initial application and sustained application of the mind to the A Paṭibhāga nimitta object are very gross, Vitakka and Vicāra are very gross. You must apply your mind to the Paṭibhāga nimitta again and again. If you can not apply your mind to the A Paṭibhāga nimitta again, your concentration will fall down. So that application of the mind to Ānāpānapaṭibhāga nimitta object is also gross because you want to be deeper and deeper concentration. Without application of the mind to the Ānāpānapaṭibhāga nimitta object, if you can concentrate on that Nimitta it will be very good. So you should reflect the disadvantage of Vitakka, Vicāra application of the mind to Ānāpānapaṭibhāga nimitta object. Then please reflect one advantage, one advantage is the subtleness of three jhāna factors, three jhāna factors are Pīti, joy, Sukha happiness and Ekaggatā, one-pointedness. These three jhāna factors are more quiet, these three jhāna factors are jhāna factors of second jhāna. Second jhāna has three jhāna factors only, so they are more quiet. After reflecting in this way you should focus on you Ānāpānapaṭibhāga nimitta again but reflecting time must be for only few seconds only, if you reflect long time then your Ānāpānapaṭibhāga nimitta will disappear, so that reflecting time must be for a few seconds only. After reflecting, when you are focusing on your Ānāpānapaṭibhāga nimitta again, then full absorption may arise again. For some meditators usually for beginners this full absorption is only first jhāna absorption. You should stay in that full absorption jhāna for about 5 minutes or 10 minutes. Emerging from that full absorption, when you are reflecting your jhāna facttors, at that time you will see Vitakka and Vicāra are gross; Pìti, Sukha, Ekaggate, these three factors are more quiet. At that time with the intention to remove gross factors and to attain the quiet factors which are the second jhāna factors, you should concentrate on your Ānāpānapaṭibhāga nimitta again. When you are concentrating on you Ānāpānapaṭibhāga nimitta again then very soon full absorption may arise. At that time you will understand Vitakka, Vicāra , initial application and sustained application of the mind to the Ānāpānapaṭibhāga nimitta object disappear, then only three jhāna factors : Pīti joy, Sukha happiness, Ekaggatā one pointedness, these three jhāna factors only remain. At that time we can say you attained second jhāna. If you attain second jhāna, in the same way you should try to maintain second jhāna for a long time. For the beginners, if they want to go to the second jhāna they should reestablish first jhāna for about nearly one hour. Emerging from first jhāna they should reflect two disadvantges and one benefit, after that only you should try to attain second jhāna. If you already attained second jhāna, next sitting if your want to go to second jhāna then you should try systematically, first you must reestablish your first jhāna concentration, at that time you should stay in your first jhāna for about 4 or 5 minutes. Emerging from your first jhāna, you should try to go to second jhāna, you should maintain your second jhāna for more than 1 hour, 2 hours etc.. Then you should try five masteries of your second jhāna in the same way as mentined in first jhāna. Then if you want to go to the third jhāna how you should try? You should practise first jhāna for a few minutes, two or three minutes, then second jhāna for about nearly one hour. Emerging from second jhāna, you should reflect two disadvantages and one benefit. Two disadvantages are:
You should refect: “This second jhāna is close to the enemy of the first jhāna, especially Vitakka, Vicāra . Because Vitakka, Vicāra are very gross. Because of this grossness, this first jhāna is very easy to fall down. In the same way this second jhāna also close to the enemy Vitakka, Vicāra . This is one disadvantage.
And then please reflect Pīti, Pīti is gross, joy is very strong at that time mind can not be stable. Because of this joy, emotion may arise, because of emotion, concentration can not be deep enough. So Pīti is gross. Because of this grossness, this jhāna also can easily fall down. This is another disadvantage.
Then one benefit: please reflect Sukha and Ekaggatā: happiness and one-pointedness. Sukha and Ekaggatā are more quiet, these two jhāna factors are the two jhāna factors of third jhāna. After reflecting in this way then you should concentrate again on your Ānāpānapaṭibhāga nimitta object. When you are concentrating on your Ānāpānapaṭibhāga nimitta object again then very soon full absorption may arise. That full absorption for the beginners may be only second jhāna. You should try to stay in that second jhāna for about 5 minutes or 10 minutes. Emerging from your second jhāna, you should reflect your second jhāna factors, at that time you will see Pīti is very gross, Sukha, Ekaggatā are more quiet. At that time to remove gross factor Pīti and to attain or to achieve subtle factors, Sukha and Ekaggatā, you should focus on your Ānāpānapaṭibhāga nimitta object again. While you are concentrating on your AP N object again then very soon full absorption may arise, that full absorption may be third jhāna. If it is third jhāna you will easily understand Pīti disappear and only Sukha and Ekaggatā remain, at that time we can say that you attain third jhāna. If you attained third jhāna then next sitting if you want to reestablish your third jhāna concentration again, then you should try systematically, you should reestablish your first jhāna concentration for a few minutes, 2 or 3 minutes and second jhāna concentration for 2 or 3 minutes only, then you should try to attain third jhāna in the same way. You should reestablish you third jhāna concentration for about 2 hours, 3 hours, etc.. and try five masteries again. If you are satisfied if you want to go to third jhāna, how you should try? You should reestablish your first jhāna concentration for few minutes, 2 or 3 minutes, second jhāna concentration 2 or 3 minutes, third jhāna concentration for about nearly 1 hour. Emerging from your third jhāna, you should reflect two disadvantages and one benefit. Two disadvantages are:
You should reflect third jhāna: this third jhāna is close to the enemy Pīti or second jhāna because you can easily fall down to the second jhāna
Then another disadvantage is please reflect jhāna factors: Sukha and Ekaggatā, please reflect Sukha is more gross, why? Taking one object if you feel happiness then this mind is not quiet. Because of this happiness your jhāna can easily fall down. If one has strong happiness, mind can not be quiet, so this is gross. Because of this grossness you can easily fall down from your jhāna. This is one disadvantage.
Then you should reflect One benefit. One benefit is please reflect Upekkhā and Ekaggatā. Upekkhā is equanimous mind or equanimous feeling and Ekaggatā onepointedness, these two jhāna factors are very quiet. These two jhāna factors are jhāna factors of Fourth jhāna.
After reflecting in this way, you should focus on your Ānāpānapaṭibhāga nimitta object again. When you are focusing on your Ānāpānapaṭibhāga nimitta object again very soon full absorption may arise. You should stay in your full absorption for about 5 minutes or 10 minutes, that full absorption jhāna may be third jhāna only. Emerging from that full absorption third jhāna, please reflect jhāna factors, at that time you will see your jhāna factor : Sukha is gross, happiness is gross and Upekkhā and Ekaggatā, two factors are more quiet. At that time with the intention to remove gross factors and to attain or to achieve more quiet factors: Upekkhā and Ekaggatā which are the jhāna factors of Fourth jhāna. You should concentrate on your Ānāpānapaṭibhāga nimitta again. When you are concentrating on Ānāpānapaṭibhāga nimitta agian then full absorption may arise, that full absorption may be fourth jhāna concentration. You will understand at that time, Sukha happiness feeling disappear, then only two jhāna factors Upekkhā and Ekaggatā, Equanimous feeling and One-pointedness remain, two jhāna factors are present in your fourth jhāna. So if your fourth jhāna is sure then you should practise five masteries of your fourth jhāna. If your fourth jhāna is real fourth jhāna then you will understand when you are enetering into your fourth jhāna concentration, at that time your breath completely stops, there will be no breathing.
So altogether there are four jhānas: first jhāna, second jhāna, third jhāna, and fourth jhāna. That fourth jhāna can produce strong powerful light. First jhāna can also produce powerful light but not same, fourth jhāna concentration, light is very bright and very powerful, for example Venerable Anuruddha, fourth jhāna concentration can produce strong powerful light up to ten thousand world cycle or one thousand world cycle, so very strong. For some meditators, the light of wisdom is very far away, maybe 2 or 3 miles or 4 or 5 miles or 10 miles etc.. So fourth jhāna concentration light is very powerful, with the assistance of that light if you discern ultimate materiality and ultimate mentality and their causes you can easily understand them. The ultimate materiality and ultimate mentality are the Noble Truth of Suffering, dukkhasacca dhammas, their causes are Samudayasacca dhammas, the Noble Truth of the origin of Suffering. These two Noble Truths are called “Saṅkhāra” formations, these “Saṅkhāra” formations are the object of Vipassanā, you must contemplate them as Anicca, Dukkha, Anatta systematically, at that time we can say you are practising Vipassanā thoroughly. To understand these ultimate Materiality and ultimate mentality and their causes as anicca, dukkha and anatta, strong powerful light of wisdom is necessary. Fourth jhāna concentration can produce strong powerful light of wisdom, but there are some meditators they also want to practise Kasiṇas and eight attainments. If they want to practise 10 Kasiṇas and 8 attainments, at that time when they discern 32 parts, such as head hair, body hair, nail, teeth, etc.. they can clearly see their different organs, different parts. If they can discern these 32 parts clearly at that time if they want to practise Kasiṇas, they can practise four color Kasiṇa, for example taking head hair as the object they can practise “Nīla” Kasiṇa. Nīla Kasiṇa they translate in different ways: some translators they translate as brown Kasiṇa, some translators they translate as black Kasiṇa, some translators they translate as blue black Kasiṇa which is true I don’t know but your head hair color, now what kind of head hair? Asian head hair color, especially Indian’s head hair color. That color is called Nīla, you can practise Nīla Kasiṇa. Taking your urine as object you can practise yellow Kasiṇa, taking your blood as the object you can practise “Lohita” Kasiṇa, red Kasiṇa; taking your skeleton as the object you can practise white Kasiṇa. If you can discern 32 parts internally and externally both, external head hair, etc.. also can be the color Kasiṇa object, so both internally and externally you can do color Kasiṇa. If you already practise these colors Kasiṇa then you can try other Kasiṇa also.
If you attain 10 Kasiṇas up to fourth jhāna stage then you can go to immaterial jhānas. If you practise 8 attainments, 8 types of jhāna, this jhāna is very strong and powerful, they can produce strong powerful light. So if you practise four Sublime Abidings, Mettā Loving kindness, Karuṇā Compassionate, Muditā Sympathetic Joy, and Upekkhā Equanimity, it will be very easy for you.
Today I will strop here my Dhamma talk, you can discuss about some questions.
Question: Is this better to have the eyes completely close or open a bit, in either case where should the eyes be pointed up or down, near or far?
Sayadaw: If you can forget your eyes like this, it is better (laughing), because close eye is better but when you close, here the earth, where should the eyes be up or down? Maybe if you can not forget your eyes, then it is a problem, another problem is when your nimitta appears, if you can concentrate on your nimitta then nimitta will be brighter and brighter and then the light of wisdom surrounding your body everywhere will become bright especially if you focus your nimitta with your close eyes at that time when your nimitta become bright at that time that light attack to your eyes, when the light attack to your eyes, at that time tears will come out, at that time concentration will decrease. This is one problem, Another problem is when you focus with open eyes to your nimitta, if you pratise many days or many months, then here many tensions will appear and your eyes will become painful, this is also another problem. Because of this reason if you can forget your eyes, it is better, but a little bit open or close, close is better, a little bit open is also not good. But while you are closing your eyes, you should put up or down? (laughing). This is your eye, this is also not good, you should forget everything about your eye, it is better, if you can not forget your eye then the problem will appear.
Q : Sometimes when I concentrate on breath object very strong feelings of anger, guilt, regret, excitement or happiness arised continuously. These feelings are much more distracting than the conceptual thoughts and also are much stronger. What should I do in this case?
Sayadaw: All unwholesome dhammas, proximate cause ayonisomanasikāra unwise attention and all wholesome dhammas proximate cause are yonisomanasikāra, wise attention. So when you are focusing on your breath object, at that time very strong feelings of anger, regret, excitement, etc.. appeared, they are unwholesome dhammas, anger is unwholesome dhamma, guilt, regret, this is also unhappiness, unwholesome dhamma, excitement it is unwholesome dhamma, it is nearly restless mind. So this unwholesome dhamma proximate cause is ayonisomanasikāra, unwise attention only. Now you are always breathing, have you always anger? You should consider very carefully: while you are practising Ānāpāna , when you are focusing on your Ānāpāna object at that time only anger appeared, so this is because unwise attention only. Everyday you are breathing, as no time you are not breathing, even you are sleeping, at that time you are breathing, at that time, no anger. Now when you are focusing on you breath object, at that time only anger appear. Why? This is because your unwise attention only, we call “Ayonisomanasikāra” only. What is unwise attention? Every formation is anicca impermanent, but you may pay attention nicca, permanent; every formation is dukkha suffering but you may pay attention Sukha happiness; every formation is anatta non-self, but you may pay attention these formations as atta; especially atta, there are two types of atta, you may accept there is soul or self; sometimes you may accept this is I, this is he, this is She, this is father, this is mother, etc.. If you pay attention in this way it is called unwise attention. Dependent on unwise attention you have anger. Now because of breath (laughing), when you focus on your breath automatically anger can not arise because of this unwise attention only. In the same way happiness, when you focus on your breath object, usually when concentration develops at that time happiness arises, but automatically can not arise, automatically if happiness arise this is because of your attention only. So please remove your unwise attention and in place of unwise attention, please reflect wise attention. What is wise attention? Wise attention is you should focus on your breath object as breath only, not I, not he not she, not father, not mother. You should not remember these. You should focus on your breath object as breath only, then this problem will disappear.
Question: Some days the Ānāpāna practice just goes well with mind focus on the breathing object and some signs of concentration, but some days nothing seems to go right maybe bad weather some have problems etc.. what can one do when such days happen when the practice seems boring and the mind is weak? How should one maintain motivation to continue further? What adjustments can one make to improve the practice?
Sayadaw: Continuous practice is necessary (Laughing). Please stop talking, please stop thinking. They are very dangerous phenomena. If you talk too much then your concentration will decrease. Then if you think about especially if you investigate too much, then your concentration can not develop. If you want to attain jhāna concentration, please stop talking, please stop thinking, please stop investigating. When you are practising Vipassanā, Investigation is very useful, very good, but when you are practising Samatha, investigation is not good. If you investigate too much then concentration can not develop. There are 7 Bhojjanga, Enlightenment Factors:
1. Sati Sambojjhaṅga, the Enlightenment Factor of Mindfulness
2. DhammaVicaya Sambojjhaṅga, the Enlightenment Factor of Investigation
3. Vīriya Sambojjhaṅga, the Enlightenment Factor of Effort
4. Pīti Sambojjhaṅga, the Enlightenment Factor of Joy
5. Passaddhi Sambojjhaṅga, the Enlightenment Factor of Tranquility
6. Samādhi Sambojjhaṅga, the Enlightenment Factor of Concentration
7. Upekkhā Sambojjhaṅga, the Enlightenment Factor of Equanimity
Altogether there are 7 Enlightenment Factors. Among these 7 Enlightenment Factors, Dhamma Vicaya, Investigation, Vīriya Effort and Pīti Joy are one group. Passaddhi Tranquility, Samādhi Concentration and Upekkhā Equanimity are one group. Sati Mindfulness is in the middle, both sides. So if Investigation group, investigation, Effort and Joy are strong, Concentration group will decrease. Concentration group mean Passaddhi Tranquility, Samādhi Concentration and Upekkhā Equanimity, these three are called Samādhi group; Investigation, Effort and Pīti, these are called Investigation group, there are two goup. If one group becomes very strong and powerful then another group will decrease. So when you are practising Samatha, you should try to make two groups balanced. When Investigation group strong at that time Concentration group can not develop. When you are practising Samatha, your Concentration group become excess, it is very good, no problem; but when you are practising Vipassanā, Investigation group become in excess, it is also very good; but when you are practising Samatha if you can make two groups balanced it is better, no problem. So when you are practising Ānāpāna , you should try to make the two groups balanced, but you may not remember these 7 Enlightenment Factors. If you want to remember then you should study, it is better.
Question: For those who had jhāna experience, can hear she aske question to the Buddha or BodhiSatta in a jhāna state to ten answers and dogma, if a person who has stable jhāna, will that person be able to live longer and healthier by the power of jhāna?
Sayadaw’s: (Laughing) In our Theravāda tradition it is impossible. Jhāna means concentration on your jhāna object only, for example when you are focusing on your Ānāpānapaṭibhāga nimitta, if you can focus on your Ānāpānapaṭibhāga nimitta, at that time you can attain jhāna. But if you are asking questions to the Buddha (laughing) this is not jhāna, this is only your imagination only. Where do you see your Buddha? Where do you see your Buddha? So Buddha, according to our Theravada traditions Buddha took Parinibbāna, already took Parinibbāna. Parinibbāna means final cessation. What is final cessation? In one Sutta, Buddha explained final cessation with one example, there is candle light, there is still oil, there is still wick, if wick also exhaust state, oil also exhaust state, fire cease. When fire ceased, where did fire go? Where this fire did go? We can not say where this fire did go. We can say completely ceased the fire because of the exhaustation of oil and wick. In the same way, Buddha took Parinibbāna because of the complete cessation of causes, five aggregates also ceased completely without remainder. Buddha’s Arahant Path destroyed defilements completely without remainder. Especially among the defilements Avijjā Ignorance, Tanhā Craving for new existence, Upādāna Clinging to new existence are more predominant defilements. This Arahant Path completely destroy defilements. Because of complete cessation of defilements, their kammas which they have accumulated before they became arahant, these kammas also have no power to produce existence. Because of this reason, we can say that this Aranhant completely destroy Avijjā Ignorance, Tanhā Craving, Upādāna Clinging and Saṅkhāra Volotional Formations and Kammas. Because the complete cessation of these causes, then five aggregates after Parinibbāna, final cessation can not arise again, there will be no more one new existence, new aggregates. At the final stage of, complete cessation stage of Parinibbāna, after Parinibbāna there will be no more one new aggregates, new existence. The meaning is after Parinibbāna, there will be no Buddha, they ceased completely. Because of this reason, how you should ask the Buddha? It is impossible, it is just only imagination only, meaningless imagination.
Q: Number two question any person who has deeper (subsriber is not so sure to catch this reddened word) jhāna , can he live longer life?
A: This life depends on his kammas only, for example in time of Buddha, there are some Arahants, as soon as they attained Aranhantship, they passed away, they took Parinibbāna, final cessation like Bahidda Daruciriya . He is quick attainer of Arahantship in our Buddha’s time. But as soon as he attained Arahantship, very soon he passed away. So how we can say one who attain jhāna can be long-ife? It is impossible, but possible if he can maintain jhāna concentration up to death moment, after that he may be reborn one of Brahma world dependent on his jhāna. At that time in Brahma world he may live long, it is possible. So if you want to become longlive then please maintain your jhāna concentration up to death moment not to fall down.
Q: What kind of the differences between access concentration and first jhāna? And how does a meditator go from access concentration to first jhāna? When a meditator arises from jhāna, are the five hindrances totally absent? If not, to what extent for the suppress?
Sayadaw: Between access concentration and jhāna, the difference. Difference, access concentration also take A for example Ānāpānapaṭibhāga nimitta counterpart sign, in the same way first jhāna also takes Ānāpānapaṭibhāga nimitta counterpart sign, object is same; but at the access concentration stage five jhāna factors are not so strong enough to maintain his jhāna concentration for a long time. But when he attains up to first jhāna stage, at that time five jhāna factors are very strong and powerful then he can maintain for a long time. One example there is small child, when he was very young he can not stand up, with the help of parent, he can stand up but easily can fall down to the ground. In the same way access concentration stage, when jhāna factors are not so strong enough, because of this reason he easily can fall down into Bhavaṅga. When he falls down into Bhavaṅga, at that time many meditators say they know nothing at that time, mind go away from the object but which object he can not say exactly, so frequently he can not maintain his concentration for a long time, but when he attain jhāna concentration at that time, he can maintain his jhāna concentration for a long time, because five jhāna factors are at that time very strong and powerful, for example strong powerful means can stand for a long time. Then when a meditator arises from jhāna, are the five hindrances totally absent? This is impossible. In time of the Buddha, there are also some meditators who attain jhānas but when they emerge from jhāna hindrances appear again because of unwise attention, predominant for example Venerable Devadatta, when he practised Samatha within one rain retreat, he attained 8 attainments and 5 mundane psychic powers but he had alot desires to become Buddha, he wants to possess a lot things, a lot gains. Because of this greediness, his jhāna falls down and he can not reestablish his jhāna concentration. So dependent on unwise attention, hindrances may arise when emerge from jhāna, but if he had wise attention continuously for many years it is impossible, five hindrances will not arise, like Venerable MahāNāga, he practise Samatha and Vipassanā for 60 (sis zero), 60 years. Within this 60 years, any hindrances never arise in his mind, because his jhāna concentration and Vipassanā concentration can suppress these hindrances for 60 years because he had always wise attention, but Venerable Devadatta had unwise attention so because of this reason he can not maintain his jhāna concentration. OK.
Q: In practising Ānāpāna , why keep two groups of 7 Enlightenment Factors balanced? Is it just focusing on the group to produce concentration for example Tranquility, Concentration and Equanimity. For the other group such as Effort and Joy, when we do not think, do we not investigate ? And just focus on breathing, isn’t it intentionally producing an imbalance? Is the imbalance only direct by proceeding to process of meditation?
Sayadaw: Maybe if you can focus on your Ānāpāna or Ānāpāna nimitta thoroughly, it is not necessary to try to make balanced these two groups but some meditators they investigate too much: “what, what, what, I want to be long this nimitta I only want to just investigate it, I dont want to attain jhāna, I want to investigate only. May my nimitta may long OK, this becomes long, no problem! May round, it will become round”, etc.. In this way he’s investigating only. If you do in this way then you can not attain jhāna. But if you focus on your nimitta only without investigating or without wondering mind, just focusing then concentration will become deeper and deeper, at that time we can say your 7 Enlightenment Factors are balanced. At that time it is not necessary to try to make the 7 Enlightenment Factors or 2 groups to make the balance.
Q: What emotions are related to the four elements?
Sayadaw: I do not understand this question (laughing)
Q: I think sorry for that I have to ask the question right now without writing because there’s important question came because of that 7 factors, and sorry for breaking the rule. In Visuddhi Magga and Mahāsati Kammatthana, because you say sometimes when doing Ānāpāna sati, you dont have to balance 7 factors. But in which occations, that in ... Sutta and .... Sutta and Bojjhanga Kosalla Sutta and ... Bhava Sutta (subscriber could not catch these reddened words and name of the Suttas because the pronunciation seem so difficult) for there you have to balance, so could you please explain us
Sayadaw: Maybe very long Sutta. They are very long suttas, how I can explain.
Q: Not right now, in the interview time. If you can find occasion because sometimes
Sayadaw: In short there are 7 Enlightenment Factors. If you can make balanced these 7 Enlightenment Factors, then this is enough only. But when you are practising concentration Samatha, then concentration group becomes in excess, a little bit excess, it is also OK, not much problem, you can attain jhāna but when you..
REMARKS: Transcriber is not sure of the Reddened words above.
Bài giảng của Ngài thiền sư Pa-Auk tại Florida 11/4/2006
Permalink
HTML code to copy to your site or email message:
Click below to select, Ctrl + C to copy.
<a href="https://daitangkinhvietnam.net/node/8665" title="daitangkinhvietnam.net">Bài giảng của Ngài thiền sư Pa-Auk tại Florida 11/4/2006</a>