Ngô Chân Lưu và giới trí thức Việt Nam đầu thời kỳ tự chủ

Phật giáo là tôn giáo xuất hiện sớm trong xã hội loài người. Xuất phát từ Ấn Độ, Phật giáo đã truyền bá rộng rãi ra khắp thế giới bằng đường bộ và đường biển, giới Phật giáo thường gọi con đường đồng cỏ và đường Hồ Tiêu.

Ở Việt Nam, Phật giáo đã được truyền trực tiếp từ Ấn Độ sang. Phật giáo ra đời ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ VI trườc Công Nguyên, người sáng lập ra đạo phật là Thích Ca Mâu Ni, sinh ở miền trung Ấn Độ.

Với Phật giáo, Thích Ca Mâu Ni xướng ra thuyết bình đẳng, bác ái, từ bi và giải thoát chúng sinh, chia tín đồ làm bốn loại: nam xuất gia tu hành, nữ xuất gia tu hành, nam theo đạo nhưng không xuất gia, nữ theo đạo nhưng không xuất gia. Việc phân chia này thời bấy giờ có ý nghĩa chống đối lại chế độ bốn đẳng cấp của xã hội Ấn Độ do đẳng cấp Bà la môn làm chủ thuyết; và thuyết bình đẳng, bác ái, từ bi, giải thoát cũng ngầm có ý nghĩa đối lập lại với trật tự, tôn ti cực kỳ vô lý do tầng lớp Bà la môn đưa ra.

Phật giáo ngay khi ra đời đã được các tầng lớp bị áp bức, bóc lột nhiệt liệt hưởng ứng. Khi Thích Ca Mâu Ni còn sống, giáo lý để Ông truyền đạo chỉ là những lời truyền dạy, chỉ có sau khi ông mất các thế hệ học trò của ông nối tiếp nhau gần 300 năm tiếp tục phát triển tư tưởng của ông, xây dựng thành một hệ thống thành văn tôn giáo Triết học Phật giáo lớn có ảnh hưởng sâu sắc ở Ấn Độ và lan toả ra nhiều quốc gia trên thế giới, kinh điển Phật giáo hiện nay rất đồ sộ gồm ba bộ phận: Kinh, Luật và Luận. Với nội dung cơ bản trong giáo lý đạo Phật của bộ kinh Tam Tạng là học thuyết Tứ Diệu Đế (bốn chân lý kỳ diệu): Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế. Nêu ra 12 nhân duyên và 8 chính đạo để giải thoát ra khỏi luân hồi. Giữa thế kỷ thứ I, Phật giáo chia làm hai phái: Tiểu thừa và Đại thừa. Cả hai giáo phái Tiểu thừa và Đại thừa đều được truyền bá vào Việt Nam, giáo phái Đại thừa dần chiếm ưu thế trong đời sống xã hội cổ đại Việt Nam. Thế kỷ thứ II, Thủ phủ của Giao Chỉ là Luy Lâu đã trở thành một trung tâm Phật giáo lớn nhất trong vùng và phát triển khá mạnh vào nữa đầu thế kỷ thứ III. Suốt thời kỳ Bắc thuộc, Phật giáo ngày càng được truyền bá sâu rộng hơn ở Việt Nam.

Bọn quan lại đô hộ phương Bắc đã nhìn thấy ảnh hưởng to lớn của Phật giáo trong quần chúng nhân dân và họ đã tìm cách nắm lấy Phật giáo và dùng nó như một loại thuốc an thần đối với nhân dân nhằm làm cho quần chúng nhân dân cam chịu với số phận cùng khổ của họ. Đến thế kỷ thứ VII, Phật giao tiếp túc phát triển mạnh ở Giao Châu. Sang đến thời kỳ tự chủ mở đầu bằng sự kiện Khúc Thừa Du dấy binh ở Hồng Châu đánh đuổi quân đô hộ nhà Đường vào năm 905 và trãi qua các triều Khúc, Ngô, Đinh, Lê, Lý và đầu triều Trần Phật giáo ngày càng phát triển mạnh, lan toả trong các tầng lớp nhân dân và cả giai cấp thống trị cũng tôn sùng Phật giáo. Trong đầu thời tự chủ, Phật giáo được suy tôn là Quốc giáo. Trong khi Phật giáo lan toả và thấm sâu vào đời sống xã hội thì giữa triều đình Đinh, Lê, Lý, Trần Phật giáo được công nhận như một tôn giáo chính thức, các chức vụ, cấp bậc trong tăng đạo được các vua nối tiếp nhau cùng tấn phong đồng thời với các cấp bậc quan lại _ văn võ trong triều đình.

Phật giáo được tôn vinh trong toàn xã hội từ vua, quan đến nhân dân đều mộ đạo, sư tăng, phật tử ngày càng phát triển mạnh, chùa, tháp, được xây cất rộng khắp thôn cùng ngõ hẻm ở Việt Nam thời kỳ đầu đất nước được độc lập tự chủ. ảnh hưởng của Phật giáo trong thời kỳ này lan rộng khắp mọi miền đất nước.

Một vấn đề đặt ra là tại sao Phật giáo khi truyền vào Việt Nam lại có sức lan toả và phát triển nhanh chóng như vậy? Trước hết về mặt đạo lý của Phật giáo mang tính tiến bộ với ba đạo lý: Duyên khởi, Tứ diệu đế, Bát chánh đạo là nền tảng cho các tông phái Phật giáo từ xa xưa đến nay. Nương tựa vào nhau mà sinh tồn, nghiệp báo, luân hồi, nhân quả, từ bi, bác ái, tứ ân với tinh thần phật pháp là bất định pháp, luôn luôn uyển chuyển theo hoàn cảnh và căn cơ của chúng sinh để hoàn thành sứ mệnh cứu khổ của mình và với tinh thần nhập thế, tuỳ duyên bất biến mà đạo Phật đã tạo cho mình sứ sống vô biên. Chính vì vậy khi vào Việt nam và phát triển sâu rộng được vì Phật giáo đã dung hoà được với tín ngưỡng truyền thống của dân tộc Việt Nam, dung hoà với các tôn giáo khác đã có ở Việt Nam trước khi Phật giáo xuất hiện như Nho giáo, Đạo giáo, tạo thành thế tam giáo đồng nguyên trong hệ tư tưởng người Việt trong buổi đầu thời kỳ tự chủ. Phật giáo Việt Nam đã dung hoà được với các tông phái nhà Phật xuất hiện ở Việt Nam ở thời kỳ đầu và trong quá trình phát triển đã tạo ra sự thống nhất trong các tông pháinhà Phật, không có mâu thuẫn đối lập mà tất cả đều quy về một mục đích chính là tu hành giải thoát. Chủ trương nhập thế của Phật giáo Việt Nam ngay từ buổi đầu dựng nước đã gắn Phật giáo với quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước, gắn với các thế hệ xã hội, các triều đại trong sự nghiệp cũng cố quốc gia, xây dựng hạnh phúc.

Phật giáo đã dung hoà với những phương thuật của Đạo_Lão với tính cách ôn hoà, thần bí nó càng dễ dàng hoà nhập vào những tập tục dân gian để mau chóng ăn sâu vào lòng tín ngưỡng của dân tộc, ngay cả mặt tiêu cực và yếm thế của Phật giáo cũng thích hợp với trình độ của nhân dân Đại Việt thời ấy. Còn những tư tưởng siêu việt, những giáo lý từ bi, bác ái của đạo phật thì hẳn là những mặt tốt, hợp với phong tục thuần hậu của dân tộc Việt lúc bấy giờ nên đã được đông đảo nhân dân tin theo. Sử gia Lê Văn Hưu đã nhận xét: “Nhà Phật lấy hoạ phúc để cảm động lòng người, sao mà được mọi người tin theo sâu sắc đến thế! Trên từ Vương công, dưới đến dân thường, hễ bố thí vào việc nhà Phật, dù đến hết tiền cũng không xẻn tiếc. Vì ngày nay gửi gắm vào tháp chùa thì trong lòng sung sướng như nắm được khoá ước để lấy sự báo ứng ngày sau, cho nên từ trong kinh thành ngoài đến châu phủ, cho đến thôn cùng ngõ hẻm, không phải ra lệnh mà tuân theo, không phải thề nguyền mà giữ đúng, chỗ nào có người ở tất có chùa Phật, bỏ đi rồi lại dựng nên, nát đi rồi lại sửa lại, lâu dài, chuông trống chiếm đến nửa phần so với dân cư. Đạo Phật thịnh rất dễ mà được rất tôn sùng”. Đây là những nhận xét xác thực của học giả đương thời giúp cho chúng ta hiểu được ảnh hưởng của Phật giáo ở thời kỳ đầu tự chủ.

Do tư tưởng triết học Phật giáo có nhiều điểm phù hợp với tâm tư, tình cảm, đạo lý dân tộc nên đã được nhân dân Việt Nam tiếp nhận, dung hào trong mọi lĩnh vực chính trị, xã hội, văn hoá, nghệ thuật trong phong tục, tập quán, kiến trúc, tạo hình, điêu khắc, hội hoạ…

Nguyên nhân thứ hai góp phần quan trọng làm cho Phật giáo phát triển mạnh đầu thời kỳ tự chủ là ngay từ thời Đinh, Lê, Lý các vua đều có tinh thần mộ đạo. Khi thiết lập được ngôi vua, các vua đều ban hành nhiều lệnh chỉ có sự lợi cho sự phát triển của Phật giáo như lệnh chỉ làm chùa trong cả nước, độ dân làm sư. Được làm sư là một vinh hạnh, không phải đi đâu, được miễn sưu thuế, không phải đi lính, được hưởng bổng lộc của vua ban, dân cóng… Muốn được làm sư phải có độ của nhà nước, đời Lý_trần việc chọn tăng được độ hàng loạt. Lê Văn Hưu viết trong Đại Việt Sử Kí Toàn Thư “nhân dân quá nữa làm tăng”.

Sư ngày càng đông nên chùa tháp xây dựng ngày càng nhhiều, ruộng đất, tài sản của nhà chùa ngày càng lớn. Theo văn bia và bài minh trên chùa Keo, Thái Bình, nhà Lý đã cóng cho chùa này số ruộng là 1374 mẫu 2 sào, chùa có nhiều ruộng và ruộng ở nhiều nơi do một chùa quản lý có thể ở gần hay ở xa nơi chùa đóng. Có thể nói nhà chhùa trong buổi đầu thời kỳ tự chủ có một thế lực kinh tế khá mạnh. Thế lực này đã nói lên được vị trí chính trị-xã hội của Phật giáo lúc bấy giờ.

Từ những cơ sở trên đây đã đưa đến sự xuất hiện giới trí thức Phật giáo Việt Nam đầu thời kỳ tự chủ có vai trò và vịtrí trong buổi đầu xây dựng nền tự chủ của dân tộc. Giới sư tăng được nhà nước công nhận là tầng lớp có học vấn, am hiểu về giáo lý đạo phật, hiểu biết về thời thế, chính đội ngũ này đã góp phần tích cực hàng ngày, hàng giờ, năm này qua năm khác đã thuyết pháp, truyền giảng những giáo lý cơ bản của đạo phật đến người dân. Sự xây dựng chùa tháp diễn ra rộng khắp trong cả nước đời Lý, Trần thể hiện sự mộ đạo giữa tầng lớp quý tộc, quan lại với nhân dân đã có sự hoà đồng. Chính vì thế mà nhà nước đã huy động được sức mạnh của nhân dân trong xây cất, tôn tạo một khối lượng chàu tháp khắp nơi trong cả nước. Giai cấp thống trị thời kỳ đầu tự chủ không tìm được chỗ dựa ở Nho giáo, họ phải tìm đến quyền lực tinh thần ở đạo phật, phải lợi dụng học vấn của các sư tăng để trị dân và đối ngoại.

Tầng lớp tri thức Phật học đã có từ trước thời kỳ độc lập tự chủ nhưng số lượng không nhiều, thân phận cũng trong cảnh bị nô lệ, mất nước. Sang đến thời kỳ đầu tự chủ từ các triều đại Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần tầng lớp này có hoàn cảnh và điều kiện thuận lợi nên đã phát triển mạnh mẽ, số lượng ngày càng tăng, giáo lý ngày càng thông thạo, chùa tháp được củngc ố và mở rộng, địa vị xã hội ngày càng lớn. Cùng với Tam giáo đã có ở Việt Nam từ trước thời tự chủ đã vượt lên thành Quốc giáo. Trong thời kỳ đầu tự chủ giới tri thứac Phật giáo được các triều đại trọng vọng. Các nhà sư có đức vọng được nhà nước phong làm Quốc sư, Đại sư đã góp phần thực hiện những chủ trương chính trị được lòng dân ở các triều vua đầu thời tự chủ, có ảnh hưởng lớn đến việc hình thành và phát triển nền văn hoá, văn minh Đại Việt đầu thời độc lập, tự chủ. “Đinh Tiên Hoàng lúc mới bình định được cả nước liền xếp đặt phân cấp tăng và đạo, Ngô Chân Lưu và Trương Ma Ni làm Tăng thống, Tăng lục, Đặng Huyền Quang làm Uy nghi. Sau đó Lê Đại Hành kế tiếp cũng rất tôn trọng tăng đạo… Câu thơ của Sư Thuận làm cho sứ thần nhà Tống phải kính phục, văn từ của Chân Lưu vang tiếng trong một thời, Vạn Hạnh biết lời sấm của ngôi vua” [1].

Nhiều nhà sư trở thành cố vấn cho các vua về đường lối đối nội và đối ngoại.

Đại sư Ngô Chân Lưu là người được phong chức danh đứng đầu tầng lớp tri thức Phật học ở thời kỳ đầu nền tự chủ của đất nước – chức Tăng thống và được ban hiệu là Khuông Việt Đại sư, Trương Ma Ni làm Tăng lục – chức quan trông coi Phật giáo dưới chức Tăng thống. Tăng thống và Tăng lục là các chức quan mà các triều đại về sau vẫn dùng.

Ngô Chân Lưu là nhà sư nổi tiếng thuộc hai triều đại Đinh và Lê, quê ở Hương Cát Lợi, huyện Thường Lạc nay thuộc huyện Tỉnh Gia, Thanh Hoá. Ông sinh năm 933 và mất năm 1011, ông thuộc phái thiền Vô Ngôn Thông. Khi Ngô Chân Lưu theo học Nho, ông dána mạo khôi ngô tuấn tú, tính tình phóng khoáng, có chí khí cao xa. Khi lớn lên ông theo đạo phật, ông là người tinh thông Tam giáo, giỏi việc đời, ông tu ở chùa Khai Quốc (Đại La_Hà Nội) năm Quý Dậu 973, ông được Đinh Tiên Hoàng trọng vọng, ban hiệu là Khuông Việt đại sư, phong chức Tăng thống là chức quan đứng đầu các tăng đạo, được tham dự vào triều chính trọng sự đến triều vua Lê Đại Hành ông vẫn được tham dự triều chính.

Ngô Chân Lưu cũng mở trường truyền thụ giáo lý nhà Phật ở chùa Khai Quốc, có tiếng vang và được đông đảo Phật tử theo tu hành, dọc đạo. Người đời mến mộ ông ở tinh thần nhập thế vì nòi giống tổ tiên, vì thái bình thịnh trị mà ông tu Phật và truyền đạo sâu rộng trong quần chúng.

Khi đã trở thành đại sư, Tăng thống Ngô Chân Lưu đã đem hết những kiến thức của đạo Phật và những hiểu biết uyên thâm về sự đời để giúp vua Đinh và vua Lê trị vì đất nước. Trong kháng chiến chống Tống, chống Chiêm, trong hoạt động ngoại giao đối đáp với sứ thần nhà Tống làm cho sứ thần nể phục.

Dưới hai triều vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành với cương vị là Đại sư và Tăng thống, Ngô Chân Lưu giữ vai trò Quốc sư – Tể tướng bên cạnh hai triềi đại từng bước xây dựng chế độ chính trị - xã hội của buổi đầu nền tự chủ mới xây dựng tập hợp nhând ân từng bước khôi phục nền độc lập tự chủ mới giành được, nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, xây dựng quan hệ ngoại giao hoà hiếu với nhà Tống, giữ vững đất đai ở phía Nam của tổ quốc, mở mang văn hoá, xây dựng Phật giáo phát triển sâu rộng nhờ giác ngộ giáo lý đạo phật cộng với lòng yêu nước nồng nàn của Ngô Chân Lưu mà ông chấp nhận cộng tác với các triều đại Đinh – Lê để ổn định việc nước việc đời và chấn hưng việc đạo. Giai cấp thống trị thời đầu tự chủ cũng đang có yêu cầu củng cố sự hoà hợp thống nhất và xây dựng giang sơn, bờ cõi mới giành được sau hàng ngàn năm bị thống trị đã tìm đến Phật giáo, tìm đến một sức mạnh tinh thần lớn trong đạo phật và trong Ngô Chân Lưu để thực hiện cho được việc giữ nước để tập hợp mọi sức mạnh của dân tộc chống lại giặc Tống ở thời Lê, chính vì lẽ đó mà giữa chính quyền và Phật giáo có mỗi gắn bó với nhau trong cùng một phận sự chung của đất nước, dân tộc.

Ngô Chân Lưu thông tuệ về Phật giáo nhưng cũng rất am hiểu về Nho giáo và Đạo giáo nên được Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành và Lý Công Uẩn trọng dụng vào công việc nội trị và ngoại giao ở mặt nào Khuông Việt cũng hoàn thành xuất sắc được sử sách ghi lại như việc đóng góp ý kiến cho nhà vua trong chống Tống xâm lược, trong đánh Chiêm Thành để bảo vệ biên ải phương Nam, trong việc giúp triều đình quản lý xã hội, thu phục lương tâm, đặc biệt trong lĩnh vực ngoại giao được nhà vua cử trong việc đón tiếp, đàm đạo với sứ thần nhà Tống mang lại những thành công như mong muốn. Được Lý Giác sứ giả nhà Tống thán phục. Sử sách thời Trần còn ghi lại bài từ hát tiễn cân sứ thần Lý Giác do Lê Đại Hành yêu cầu Ngô Chân Lưu làm để tặng Lý Giác về nước đó là bài “Vương Lang Quy” (chàng Vương trở về).

"Trường quan phong hảo cẩm phân trương

Đao vọng tầhn tiên phục đế hương

Vạn Trũng sơn thuỷ thiệp thương lang

Cửa thiên quy lộ trường

Tình thân thiết, đôi ly thương

Phan luyến sứ tình lang

Nguyện tương thân ý vị biên cương

Phân minh tấn ngã hoàng"

Nghĩa:

Trời quang lành, gió mát, giương cánh buồm gấm

Thần tiên lại để hương

Vượt sóng xanh muôn dặm trùng dương

Về trời xa đường trường

Tình thắm thiết, chưa lên đường

Vin xe sứ vấn vương

Xin đem thâm ý vì nam cương

Tâu vua tôi tỏ tường [2]

Đây là bài thơ ngoại giao của Ngô Chân Lưu có lời đẹp và biểu hiện rõ ràng ý thức độc lập tự chủ. Đây là tác phẩm sớm nhất của văn học Việt Nam, bài từ Vương Lang Quy cũng là tác phẩm mở đầu cho thơ văn ngoại giao Việt Nam, được người đời sau đánh giá cao. Phan Huy Chú cho rằng Vương Lang Quy “là một khúc hát hay, đủ phô trương nước ta có một người tài, làm cho quốc thể được được tôn trọng, người phương Bắc phải kính nễ”, Lê Quý Đôn nhận xét “văn của Chân Lưu vang tiếng một thời” [3] là một văn bản sớm nhất đã ghi lại dữ liệu nói về việc biên giới Việt – Trung.

Người đời trước và đời nay đọc Vương Lang Quy của Ngô Chân Lưu đều phải ngạc nhhiên, thán phục trước nghệ thuật viết từ hết sức nhuần nhuyễn của ông. Ngoài lời điệu tao nhã, sang trọng, ý tứ hàm xúc, từ điệu của Ngô Chân Lưu còn biểu hiện một sức diễn tả tình cảm trữ tình, dồi dào không thua kém gì từ phong Đường – Tống của Trung Quốc.

Về cuối triều Lê, Ngô Chân Lưu già yếu xin từ quan về núi Du Hý, lập chùa trụ trì, người học tìm tới rất đông. Ngày 15 tháng 2 năm Thuận Thiên thứ II (1011) tức ngày 22-3-1011 Tây lịch, Ông viên tịch, thọ 78 tuổi. Khi sắp cáo tịch, Thiền sư Ngô Chân Lưu – Khuông Việt quốc sư có dạy sư Đa Bảo kệ rằng:

"Trong cây vốn có lửa

Có lửa, lửa mới bừng

Nếu bảo cây không lửa

Cọ xát do đâu bùng "[4].

Bài kệ mang một tinh thần triết học sâu sắc, một triết lý để lại cho muôn đời.

Giới tri thức Phật giáo Việt Nam đầu thời kỳ tự chủ ngoài Ngô Chân Lưu là nhân vật tiêu biểu mà chúng tôi đề cập trên đây còn có một lực lượng đông đảo tham gia trong bộ máy nhà nước của các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, trụ trì các chàu lớn nhỏ ở kinh đô Hoa Lư, thành Thăng Long và các vùng quê Việt Nam đầu thời tự chủ. Theo Thiền Uyển Tập Anh, tác phẩm lịch sử phật giáo Việt nam cổ nhất đã ghi lại 68 Thiền sư thuộc Thiền phái Vô Ngôn Thông , Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Thiền phái Thảo Đường. Có nhiều vị đại sư, Thiền sư chỉ nhắc đến số lượng, không ghi rõ trong Thiền Uyển Tập Anh. Bộ phận tri thức Phật giáo này được chính thức thừa nhận. Ngoài họ ra trên khắp dãi đất Việt Nam thời kỳ đầu tự chủ số lượng chùa tháp được xây dựng nhiều, đội ngũ sư trụ trì cũng rất đông đảo để quản lý chùa tháp, để hướng dẫn Phật tử, chúng sinh tu hành, học đạo, học chữ, nghe giảng giải kinh phật suốt trong năm – tháng. Số sư tăng được nhà nước ở thời đầu tự chủ độ cũng không phải ít, các học trò của các thiềns ư ngày càng nhiều và được chính quyền trọng dụng, được Phật giáo tin dùng. Tất cả tập hợp thành một đội ngũ tri thức Phật giáo đông đảo, có trình độ về giáo lý nàh Phật, có đức độ trong cuộc sống, mộ đạo và được nhân dân tin yêu, giúp đỡ. Tầng lớp này có uy tín trong xã hội, trong triều đình và trong nhân dân, họ đã trở thành một thế lực xã hội lúc bấy giờ, chỗ dựa vững chắc của nhà nước phong kiến trong buổi đầu thời tự chủ. Khách quan mà nói, tầng lớp tri thức đạo Phật này đã có những đó ng góp đối với xã hội Việt Nam trong buổi đầu dựng nước và giữ nước trên những mặt sau đây:

1. Góp phần ổn định tinh thần, tư tưởng trong nhân dân làm cho nhân dân an lành trong cuộc sống của buổi đầu thời tự chủ cuộc sống mà nhân dân đã từng mơ ước, đấu tranh từ thế hệ này sang thế hệ khác mới giành lại được. Bộ phận lãnh đạo của dân tộc lúc đầu còn nhỏ yếu, cai trị, pháp luật còn đơn giản, còn nhiều thiếu thốn. Những khó khăn, trở ngại bước đầu trong quản lý nhân dân, tập hợp nhân dân, hướng dẫn nhân dân thì vai trò của các thiền sư, tăng đạo trụ trì tại các chùa trên khắp lãnh thổ Việt Nam là hết sức quan trọng, trở thành như một cánh tay đắc lực của nhà nước trong thời kỳ đầu tự chủ. Nhà nước phong kiến thời đầu tự chủ đã chính thức tiếp nhận Phật giáo làm nguyên tắc chỉ đạo tâm linh cho chính sự và từ thời Lý trở đi Phật giáo được công nhận là Quốc giáo nhờ đó tầng lớp trí thức Phật giáo có điều kiện đưa ra những giáo lý của đạo Phật vào trong đời sống xã hội, hướng dẫn sống theo giáo lý nhà Phật từ bi bác ai, tu thân, tích đức, không làm điều ác, đề cao ân đức… đã góp phần ổn định tình hình xã hội, tạo cuộc sống an lành cho người dân, khác với cuộc sống loạn lạc của hàng ngàn năm bị phương Bắc đô hộ.

2. Qua hoạt động của mình, đội ngủ trí thức Phật giáo đầu thời tự chủ đã đóng góp nhiều ý kiến hay để thực hiện những chính sách thân dân đặc biệt ở thời nhà Trần.

Giới tri thức Phật giáo đầu thời tự chủ từ truyền thống của dân tộc và giáo lý của đạo Phật đã tạo được sự hào hợp với Nho giáo và Đạo giáo, không xảy ra chiến tranh tôn giáo từ buổi đầu cho đến suốt thời gian dài của lịch sử. Tinh thần dung hoà và khai phóng của Phật giáo Việt Nam đã tạo thế Tam giáo đồng nguyên, đã hoà nhập được với những tín ngưỡng truyền thống của người Việt. Các nhà sư không chủ trương ngăn cách, cấm kỵ các đạo khác để tranh giành ảnh hưởng trong dân chúng mà chính tinh thần khai phóng của Phật giáo Việt nam đã kết tụ lại trong chân – thiện – mỹ và lấy đó là cứu cánh, lấy giác ngộ làm trí tuệ để đi vào cuộc sống dân tộc.

3. Giới tri thức Phật giáo qua tuyên truyền giảng giải đạo lý, qua hướng dẫn người dân tu hành, qua hoạt động tham gia của các nhà sư với cộng đồng, đã từng bước, qua nhiều thời tự chủ từ triết lý, tư tưởng, đạo đức, văn học, nghệ thuật, cho đến phong tục tập quán, nếp sống, nếp nghĩ, tạo nên cảnh sốngc han hoà, thanh bình, nề nếp trong xã hội, ổn định cuộc sống của cư dân trong vùng nông thôn rộng lớn ở thời đầu tự chủ, tạo thế hùng mạnh từ cơ sở để chiến thắng giặc Tống, giặc Nguyên ở thời kỳ này.

4. Giới tri thức Phật tử trong buổi đầu dựng nước đã trực tiếp tham gia vào công việc quản lý nhà nước cùng với giới thống trị như tham gia đối ngoại, tiếp đãi các sứ thần của Trung Quốc, Chiêm Thành, tham gia các công việc nội trị. Sử sách còn ghi lại đời Lý có Sư Vạn Hạnh, sư Đa Bảo. Các công việc chính sự trong triều các sư đều tham dự quyết định.

5. Việt Nam đầu thời tự chủ là một quốc gia mộ đạo nên chùa táhp được xây dựng nhiều, sư tăng ngày càng đông đảo nhà nước phải chăm lo giao nhiều ruộng đất cho nhà chùa quản lý, trực tiếp là các sư trụ trì. Các sư trụ trì đã có nhiều công sức trong việc quản lý ruộng đất và tài sản ngày càng tăng của nhà chùa. Việc quản lý và tổ chứ sản xuất này mang lại hiệu quả lớn, góp phần nuôi sống đội ngũ tăng ni ngày càng đông đảo và tăng nguồn tài lực cho nhà chùa nói riêng và cho xã hội nói chung, đây cũng là nét đóng góp của giới trí thức Phật giáo trong thời kỳ đầu tự chủ. Chùa ở thời kỳ này, đặc biệt là chùa ở làng, ở Hoa Lư, Thăng Long không chỉ là nơi để các nhà sư tu hành, dân chúng đến cúng Phật mà các nhà sư trụ trì còn tổ chức thành trung tâm sinh hoạt văn háo của cộng đồng làng xã người Việt. Có những chùa lớn thì làm trường dạy tăng ni, chùa nhỏ thì làm trường cho con em nhân dân học chữ. Đội ngũ trí thức Phật giáo đã đóng góp phần quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật, truyềnbá những vấn đề đạo lý trong nhân dân qua hệ thống chùa tháp được xây dựng nhiều ở thời kỳ này. Đội ngũ này còn là tấm gương về đạo đức và lối sống thanh bần để nhân dân học tập và làm theo.

Nhân kỷ niệm 1000 năm ngày mất của Đại sư – Quốc sư Ngô Chân Lưu chúng ta đánh giá cao những cống hiến của Quốc sư đối với tổ quốc Việt Nam, thời kỳ đầu dựng nước và giữ nước. Bên cạnh Quốc sư còn có một đội ngũ đông đảo các trí thức Phật giáo trên khắp cả nước Đại Việt thời bấy giờ cũng có những đóng góp không nhỏ làm cho Phật giáo Đại Việt thấm sâu vào tinh thần dân tộc, góp phần tạo nên những bản sắc riêng của Phật giáo Việt Nam, góp phần tạo nên sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc trong buổi đầu xây dựng và bảo vệ đất nước.

Chúng ta biết ơn công lao của Đại sư Khuông Việt – Ngô Chân Lưu và tầng lớp trí thức Phật giáo thời kỳ đầu tự chủ. Những cống hiến ấy sau hàng ngàn năm vẫn còn nguyên giá trị của nó.

PGS.TS. Võ Xuân Đoàn

Trường Đại Học Ngoại Ngữ - Tin Học Tp. HCM

(Theo tham luận Hội thảo khoa học quốc tế Quốc sư Khuông Việt và Phật giáo Việt Nam đầu kỷ nguyên độc lập)

CHÚ THÍCH:

[1]: Lê Quý Đôn (1962): Kiến Văn Tiểu Lục, tr. 453. Nxb Sử học, Hà Nội.

[2]: Đại Việt Sử Kí Toàn Thư, tr. 225. Nxb KHXH, hà Nội, 1993.

[3]: Tạ Ngọc Liễu (1999): Chân Dung Văn Hoá Việt Nam, tr. 16-17. Nxb Thanh Niên, Hà Nội.

[4]: Thiền Uyển Tập Anh (1993). Nxb Văn học Hà Nội, tr. 48.