GẶP GỠ VĂN HÓA GIỮA CÁC DÂN TỘC Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

Ngay từ cuối thế kỷ XVII, ở đồng bằng sông Cửu Long đã có nhiều cộng đồng dân tộc cùng sinh sống. Người Việt là dân tộc chủ chốt đã khai phá đặt nền tảng quản lý hành chánh; và về phương diện quân sự họ cũng là lực lượng chủ chốt bảo vệ vùng đất. Người Việt từ các vùng Bắc Bộ, nhưng nhiều nhất là các vùng Ngũ Quảng Trung Bộ, đã vào miền Nam với rất nhiều thành phần. Trong số đó, những người không can án, không có vấn đề, lại giàu có, có kiến thức chữ nghĩa để giao thiệp với quan lại địa phương, đủ điều kiện xin lập làng rồi trở thành các tiền hiền, hậu hiền là số ít. Đại đa số là những người

 thiếu may mắn, khôngc ó hoàn cảnh thuận tiện ở quê quán cũ như mắc tội, can án, nghèo khó nợ nần... gọi chung là lưu dân; gồm vài hạng tiêu biểu như dân lậu, là kẻ có nhà cửa có ghi tên trong số bộ đinh nhưng trốn thuế; dân đào, là kẻ có nhà cửa có tên trong sổ bộ nhưng lại vì nhiều lý do đã đi nơi khác làm ăn; dân ngụ, cũng có nhà cửa có tên trong sổ bộ đinh ở một làng nhưng lại đến ngụ ở làng khác để làm ăn thuận tiện hơn. Còn lại, có những thành phần bị coi là bất hảo, không được làng xã công nhận cũng vì nhiều lý do, không nhà không cửa, không có tên trong sổ bộ, được gọi là kẻ “trôi sông lạc chợ”, “ăn quán ngủ đình”. “giang hồ tứ chiếng”. Cũng có người chí thú làm ăn nhưng không gặp may, lang thang đây đó tìm đến những nơi nào có đất hoang còn trống mà cư dân ở đó không khai thác hết, gọi là “hoang nhàn dư địa”, để xin làng kiếm sống. Vì đi lang thang khắp nơi tìm đất như thế nên đã hình thành một khái niệm đã được gọi trại đi về họ, những người “hoang đàng chi địa”.

Trong quá trình khai phá vùng đất phương Nam, không thể không tính đến sự có mặt của các dân tộc bản địa và những dân tộc di cư đến. Đó là các dân tộc Hoa, Khme và Chăm.

Người Khme đã có mặt rất sớm ở đồng bằng sông Cửu Long, là dân tộc bản địa. Họ đã chọn những nẻo đất cao trên những giồng dọc theo bờ sông Tiền, sông Hậu, nương nhờ vào thiên nhiên để trồng tỉa và sinh sống. Khi đó, người Khme đã quần tụ nhiều trong những phum sóc trên những giồng đất ở Trà Vinh, Sóc Trăng, bạc Liêu, vùng đồi núi Tri Tôn – An Giang. Người Khme hiền hoà, hiếu khách, biết làm ruộng thâm canh. Họ theo Phật giáo Tiểu thừa, có những hình thức sinh hoạt văn hoá độc đáo thể hiện qua ca múa, lễ hội... Ở vùng Hậu Giang, từ xưa đã có những vùng đất cao ruộng tốt mà người Khme cư trú, cụ thể là vùng Sóc Trăng với cảng sông quan trọng là bãi xàu, nơi người Khme trồng được một loại gạo nổi tiếng, gạo Bãi Xàu, một đặc sản của tỉnh Sóc Trăng xưa. Ở rạch Giá xưa, trênc ác giồng cao ráo ven sông Cái Lớn và Cái Bé, người Khme cũng đã lập xóm từ xưa. Vùng Cà Mau xưa cũng có hai làng Hưng Ngãi và Hưng Lợi là làng của người Khme. Hiện nay tại đồng bằng sông Cửu Long có nhiều địa phương quy tụ nhiều người Khme như Sóc Trăng, Trà Vinh, cà Mau....

Sự hiện diện từ đầu của người Hoa sát cánh với người Việt trong quá trình khẩn hoang đồng bằng sông Cửu Long là điều được nhiều nhà nghiên cứu ghi nhận. Khác với người Khme thường sống tập trung, người Hoa phân tán khắp nơi. Nhiều chi nhánh người Hoa di cư đã tiếp tay người Việt trong việt khai khẩn, lập đất, đóng góp không ít công lao như nhóm người Hoa dưới sự đứng đầu của Dương Ngạn Địch, góp phần xây dựng vùng đất Mỹ Tho. Đặc biệt là vai trò của gia tộc họ Mạc trong việc khai khẩn và xây dựng đất Hà Tiên. Ở đồng bằng sông Cửu Long, người Hoa hiện diện trong nhiều mặt của đời sống lao động sản xuất cũng như văn hoá xã hội, họ năng động và thực tế, thực dụng hơn các dân tộc đồng cư. Họ cũng có trồng trọt, làm rẫy, trong đó nổi tiếng nhất là người Triều Châu ở các vùng Bạc Liêu, Cà Mau xưa giỏi về nghề trồng hoa màu, làm rẫy trên đất giồng. Họ rất siêng năng, chịu cực chịu khó lúc còn nghèo để khéo léo gầy vốn làm ăn. Nhưng phổ biến nhất thì họ vẫn làm nghề truyền thống của dân tộc Trung Hoa, là buôn bán, từ buôn bán nhỏ như các nghề “ve chai lông vịt”, bán tạp hoá trong xóm... Họ tổ chức tiệm tạp hoá ở khắp hang cùng ngỏ hẻm, và bán đủ thứ, rất chịu khó thu tiền nhỏ cho đến khi đúng lúc có thể kinh doanh cỡ lớn. Dấu ấn kinh doanh của người Hoa còn lưu lại ở đồng bằng sông Cửu Long rất nhiều và thường gắn liền với các trọng điểm buôn bán lớn của người Việt như Bãi xàu ở Sóc Trăng, Cái Răng ở Cần Thơ... Do tinh thần trọng nông khinh thương, ít dám mạo hiểm xông pha của người Việt trong một khoảng rất dài lịch sử khai phá, người Hoa đã từng đóng vai trò chủ chốt trong việc kinh doanh các mặt hàng quan trọng, nhất là lúa gạo, nên có tình trạng “người Việt trồng lúa và người Hoa buôn gạo kiếm lời”.

Người Chăm tập trung nhiều ở An Giang, Châu Đốc, phần đông sống bằng nghề buôn bán nhỏ, làm tiểu thủ công nghiệp. Tổ chức xã hội của người Chăm đặt trên nền tảng Hồi Giáo với nhiều phong tục tập quán riêng.

Chính sự cộng cư của nhiều dân tộc trên vùng đất mà đồng bằng sông Cửu Long ngày nay mới có được một bản sắc văn hoá phong phú và đa dạng. Lúc đầu có thể đó chỉ là sự liên kết đơn thuần của một cộng đồng người để chống lại thiên tai địch hoạ, hầu tìm sự bình yên trongc uộc sống và sản xuất. Đồng bằng sông Cửu Long tuy có một nguồn lợi lớn về thiên nhiên, nhưng thời điểm mà các lưu dân đến đây thì vùng đất này chỉ là vùng rừng rậm hoang vu, thú dữ tràn đầy.

Đến đây đất nước lạ lùng

Con chim kêu phải sợ, con cá vùng phải khinh.

Ngoài việc chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt buổi ban đầu, các lưu dân còn phải chống chọi với nhiều loại thú dữ hoành hành, nào là muỗi mòng, rắn rết, voi, cọp, heo rừng... mà con người nếu không liên kết sẽ không tài nào chống chọi nổi. Do đó, ngay từ buổi đầu mở đất, các dân tộc cộng cư ở đồng bằng sông Cửu Long đã chung lưng đâu cật đoàn kết để chống chọi với thiên nhiên, với thú dữ và nhiều loại tai hoạ khác. Và đoàn kết, ngoài việc chống chọi với những khó khăn thử thách còn là để cho có bạn có bè, cho đỡ quạnh hiu giữa chốn rừng thiêng nước độc. Vì lẽ đó, nếu truyền thống văn hoá cội nguồn quan niệm “một giọt máu đào hơn ao nước lã” thì cư dân ở đồng bằng sông Cửu Long lại quan niệm “bán bà con xa mua láng giềng gần”. Bởi, yếu tố láng giềng có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với cư dân ở đây, trong việc giúp đỡ nhau những lúc hoạn nạn khó khăn, tối lửa tắt đèn có nhau, trong việc khẩn hoang lập ấp, mở rộng xóm làng, tạo dựng cho cuộc sống ngày càng phát triển. Do đó, người ta thường nói, người dân đồng bằng sông Cửu Long có tinh thần hiếu khách, trọng nghĩa khinh tài cũng xuất phát từ các yếu tố trên.

Quá trình cộng cư của các dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long đã tạo thành một sức mạnh tổng hợp và vô cùng to lớn trong việc khắc phục và chế ngự thiên tai địc hoạ, xậy dựng xóm làng, làm cho vùng đất này trước kia chỉ là vùng rừng rậm hoang vu, đầm lầy nê địa, chỉ sau 300 năm đã trở thành một vùng đất trù phú mang lại một nguồn lợi to lớn từ thiên nhiên. Bên cạnh đó, chính sức mạnh tổng hợp ấy đã làm cho vùng đất này ngày càng khai khẩn được nhiều hơn, đất hoang dần đần thu hẹp, xóm làng liên tục mọc lên, và đời sống kinh tế ngày càng được nâng cao. Ngay từ thế kỷ XVIII, vùng đồng bằng sông Cửu Long đã xuất hiện nhiều thị tứ, tụ điểm buôn bán sầm uất, mà trung tâm của nó là thương cảng Bãi Xàu, thương cảng hà Tiên, Mỹ Tho đại phố... làm cho vùng đồng bằng sông Cửu Long ngày càng thêm rực rỡ, sung túc và tấp nập.

Quá trình cộng cư và đoàn kết giữa các dân tộc sống ở đây trong một thời gian dài đã tạo ra sự giao lưu về mặt văn hoá giữa các dân tộc với nhau. Mặc dù mỗi dân tộc đều có một bản sắc dân tộc riêng, nhưng cuộc sống chung chạ nhiều ngày đã không tránh khỏi sự đan xen và pha trộn lẫn nhau giữa các nền văn hoá của các dân tộc. Và cũng chính nhờ sự đan xen này mà văn hoá ở đồng bằng sông Cửu Long có sự phong phú, đa dạng, đậm đà bản sắc riêng, tạo nên một nét đặc trưng của nền văn hoá vùng sông nước Cửu Long. Chẳng hạn, về mặt tôn giáo tín ngưỡng, cả ba dân tộc Việt, Hoa, Khme đều có thờ Phật. Nhưng người Việt, người Hoa cũng đều có thờ Neaktà của người Khme, hay người Khme và người Việt đều có đức tin đối với Quan Công, Bà Thiên Hậu. Hay về mặt ẩm thực, người Việt và Hoa đều có ăn mắm bồ-hóc và canh xiêm-lo của người Khme, người Khme và người Việt cũng thích các món vịt tiềm, heo quay bánh hỏi của người Hoa, cũng như người Hoa, người khme thích ăn canh chua cá kho tộ của người Việt. Thêm vào dó, người ta cũng thấy rằng, ngaoì ngôn ngữ riêng của mỗi dân tộc, tiếng Việt dần dần trở thành tiếng phổ thông của cộng đồng người ở đây, bên cạnh hiện tượng song ngữ và đa ngữ trong cộng đồng các dân tộc. Trong tiếng nói của người Việt đã có sự hiện diện của các tiếng dân tộc và ngược lại, chẳng hạn như các từ lì-xì, xính-xái, xí-mụi, thèo-lèo, tài-công, tằng-khạo xuất phát từ tiếng Hoa; cà-ràng, xà-quầng, mình-ên xuất phát từ tiếng Khme...

Chim kêu Ngồ Ố,Láng dài

A hia xùa bố a mùi ùm chai.

(Chim kêu Ngồ Ố, Láng Dài,

Anh cưới vợ rồi, em chẳng được hay!).

Ngoài ra, chiếc “phảng”, chiếc “nóp”, cái “cà ràng” vốn của người Khme đã được người Việt cải tiến thành những dụng cụ quen thuộc và thích dụng hơn cho người làm nông. Chiếc áo “bà ba” vốn có của người Việt đã trở nên phổ biến đối với nhiều dân tộc ít người. Ngôi nhà sàn là kiểu cư trú truyền thống của người Khme, nhưng người Việt ở Năm Căn, Đồng Tháp, Sóc Trăng, Trà Vinh, người Chăm ở Châu Đốc cũng sử dụng (...). Ở Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu... cả người Việt, người Hoa, người Khme đều ăn Tết Nguyên Đán và Tết Cholchnamkhmay. Truyện Thạch Sanh – Lý Thông của người Việt và truyện Chao Sanh- Chao Thông của người Khme; truyện Tấm Cám của người Việt và truyện Niêng Mônơrắc Mêđa của người Khme đều có chung một nội dung. Những nhân vật Đơn Hùng Tín, La Thông, Tiết Nhơn Quý, Phàn Lê Huê trong các tuồng tàu, truyện tuồng cải lương, nói thơ Nam Bộ.

Tóm lại, đồng bằng sông Cửu Long là vùng đất mới, vùng đất có nhiều tài nguyên thiên nhiên ưu đãi con người, nhưng đồng thời thiên nhiên ở đây cũng không ít lần gieo rắc tai hoạ cho con người. Chính sự hoà hợp và đoàn kết giữa các dân tộc Việt – Hoa – Khme – Chăm,cộng cư trên vùng đất này đã tạo nên một nguồn lực to lớn trong việc khai khẩn và phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long. Vì lẽ đó, khi nói đến văn hoá ở đồng bằng sônng Cửu Long là phải nói đến văn hoá của các dân tộc cộng cư trên một vùng đất. Trong đó, giao lưu văn hoá là một yếu tố đặc trưng của vùng này. Bởi, không gian văn hoá đồng bằng sông Cửu Long là một không gian văn hoá mở, nó sẵn sàng chấp nhận bất kỳ một nền văn hoá nào du nhập vào, nhưng đấy là sự chấp nhận có chọn lọc, nhằm củng cố, bổ sung và làm giàu thêm cho bản sắc văn hoá của mình. “Không thể kể hết sự giao lưu văn hoá của người Việt với văn hoá các dân tộc khác trong vùng trên tất cả các lĩnh vực: cung cách làm ăn, việc ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, vui chơi, giải trí, giữ gìn sức khoẻ,... Trong sự giao lưu đó, trên cơ sở kế thừa, tiếp thu có chọn lọc, nề văn hoá của người Việt trong vùng đã được nâng lên, được làm phong phú thêm với nhiều nét đặc sắc”.

 

TRẦN PHỎNG DIỀU

Theo văn hóa Phật giáo số 113