Khi có ngoại xâm, các Thiền sư đã "cởi áo cà sa khoác chiến bào". Hành động đó phát xuất từ tấm lòng từ bi, cứu khổ cứu nạn của những người con Phật, nhưng không chỉ có thế. Ở đây, xuyên suốt giòng lịch sử phát triển của dân tộc, cũng là lịch sử tranh đấu không ngừng với ngoại xâm, đã un đúc trong những con người Việt một tinh thần yêu nước nồng nàn, đã kết tinh thành truyền thống và trải qua các thời đại, tinh thần này càng phát triển.
Những vị vua nhà Trần cũng đồng thời là những Thiền sư đã thể hiện được sự kế thừa, tiếp thu đạo Phật một cách chọn lọc và sáng tạo, đã bằng những hành động của mình, khơi sáng đem lại cho Phật giáo một sức sống thực sự, làm cho đạo Phật bị trở thành giáo điều, khô cứng. Qua các Thiền sư đời Trần, Phật giáo đã đi vào cuộc đời, đã tồn tại trong lòng dân tộc. Ở các Thiền sư đời Trần, Thiền lý và Thiền hành đã nhập làm một, không phân biệt, chỉ còn lại Trí Huệ Bát Nhã, dùng nó bằng nhiều hình thức khác nhau, bằng mọi phương cách khác nhau, để phục vụ nhân sinh.
Trong Phật giáo Trúc Lâm không phải là hình ảnh những Thiền sư ngồi yên lặng tham Thiền nhập định, bởi vì xét cho cùng, đó cũng chỉ là một công đoạn, một phương tiện, tạo điều kiện cho những người tu hành Thiền bước đầu đi vào con đường nhận chân thực tánh, chứ chưa phải là phương cách thể hiện Thiền. Và nói theo ngôn ngữ của vị tổ sư Thiền nổi tiếng Bồ Đề Đạt Ma thì "đối với tôi, chỉ đạt đến Thiền khi ta được Phật tánh của chính mình...". Sự kiến tánh cũng giống như đồ ăn, cũng giản dị và lập tức như thế, người ta không bao giờ lý thuyết viển vông chung quanh sự nuốt đồ ăn ấy, ta biết nuốt hay không biết nuốt, chỉ có thế thôi!
Vài Suy Nghĩ Về Thiền
Tông Việt Nam
Trần Hồng Liên
1) Trong tiến trình phát triển của Phật
giáo Việt
Trải qua các triều đại, đạo Phật đều thể
hiện nét riêng biệt đặc thù và cả trong ba yếu tố cấu thành của Phật giáo Việt
Nam là Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật tông cũng tuy từng thời điểm khác nhau
mà thể hiện yếu tố này nhiều hay ít hơn yếu tố khác. Từ đó cũng có thể cho rằng
con người và hoàn cảnh xã hội mỗi thời kỳ cũng có thể cho rằng con người và
hoàn cảnh xã hội mỗi thời kỳ cũng là một trong những nhân tố quan trọng góp phần
quy định bản chất của Phật giáo Việt
2) Khi đề cập đến các Thiền sư đời Trần và Thiền
phái Trúc Lâm Yên Tử ai cũng thừa nhận đó là một trong những Thiền phái tiêu
biển cho Phật giáo Việt
- Tính vô ngã, vị tha: Đây là một trong những tính chất mang tính tiêu biểu của Phật giáo, là mục đích nhưng đồng thời cũng là nguyên nhân, là phương tiện chi phối mọi hoạt động. Vô ngã và vị tha là hai yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau, tùy thuộc vào nhau. Khi bản ngã còn thì không có được vị tha trọn vẹn. Ở những triều đại khác, nơi mỗi nhà tu hành, ít nhiều cũng có hai yếu tố này, nhưng đặc biệt đối với triều đại nhà Trần, là giai đoạn có sự thử thách cao, đối đầu với xâm lược có tầm cỡ trên thế giới, nên để đạt được mục tiêu chung, nhằm giữ gìn nền độc lập cho xứ sở, tính chất này càng được bộc lộ mạnh mẽ. Những đố kỵ, hiềm khích, ghen ghét nhau trong vua tôi tạm thời được gác lại, để tập trung vào mục tiêu chung, thì trong các Thiền sư, tính chất vô ngã, vị tha càng được thể hiện rõ nét qua câu nói của nhà sư trụ trì trên dãy Yên Tử (Quốc sư Trúc Lâm hay Phù Vân) khuyên vua Trần Thái Tông: "Phàm là đấng làm vua cai trị muôn dân, thì phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy tâm của thiên hạ làm tâm của mình".
- Tinh thần nhập thế: Có "tâm vô ngã" Thiền sư mới hòa mình trọn vẹn vào cuộc đời, không còn cái tôi nên không còn phân biệt hình tướng đạo đời, mới sống an nhiên, tự tại không thấy mình là nhà tu, là khác đời, và vì vậy mà không tạo thế xa cách. Tuệ Trung là một người đạo cao, đức trọng, được vua Thánh Tông khâm phục gọi là Thượng Sĩ (tức là Bồ Tát), khi hay tin giặc Nguyên xâm lược, ông rời khỏi Thiền lâm ra trận. Vua Nhân Tông sau khi đổi pháp hiệu là Trúc Lâm đã đi "vân du, hành đạo" không còn mang tư tưởng mình là một vị vua cai trị muôn dân, ông đã thoát bỏ dễ dàng cái ta, đạt được tinh thần vô ngã nên mới có hành động vị tha, đi vào dân để kêu gọi hành thập thiện. Do vậy, nhập thế vào đời, điều kiện trước hết đòi hỏi ở người hành đạo, ở một Thiền sư, là phải có tinh thần vô ngã, vị tha. Càng thể hiện trọn vẹn tinh thần này thì hành động càng mang lại lợi ích thiết thực. Tinh thần này còn được thể hiện qua cái nhìn và việc đánh giá cao về con người và vai trò của Tuệ Trung. Dưới con mắt của nhà Thiền, Tuệ Trunng được đưa lên tầm cao và được phá bỏ những dị biệt về hình tướng, không còn xét xem đó là một tu sĩ hay cư sĩ, là người đạo hay kẻ đời.
Như vậy, một triều đại có được tư tưởng Thiền tông xuyên suốt, biết vận dụng nó làm kim chỉ nam cho mọi tư tưởng và hành động của mình, như triều Trần, nên đã tạo cho Phật giáo đời Trần một thời kỳ rực rỡ trong lịch sử, thể hiện cao tinh thần dân tộc, ở đó tính chất nhập thế được xem là giáo lý căn bản, dùng nó làm nền tảng cho đạo đức xã hội, xây dựng một hệ thống giáo hội mới và hệ thống kinh sách mới, không lệ thuộc và chịu ảnh hưởng nặng nề của Phật giáo từ Ấn Độ cũng như từ Trung Quốc.
Khi có ngoại xâm, các Thiền sư đã "cởi áo cà sa khoác chiến bào". Hành động đó phát xuất từ tấm lòng từ bi, cứu khổ cứu nạn của những người con Phật, nhưng không chỉ có thế. Ở đây, xuyên suốt giòng lịch sử phát triển của dân tộc, cũng là lịch sử tranh đấu không ngừng với ngoại xâm, đã un đúc trong những con người Việt một tinh thần yêu nước nồng nàn, đã kết tinh thành truyền thống và trải qua các thời đại, tinh thần này càng phát triển.
Những vị vua nhà Trần cũng đồng thời là những Thiền sư đã thể hiện được sự kế thừa, tiếp thu đạo Phật một cách chọn lọc và sáng tạo, đã bằng những hành động của mình, khơi sáng đem lại cho Phật giáo một sức sống thực sự, làm cho đạo Phật bị trở thành giáo điều, khô cứng. Qua các Thiền sư đời Trần, Phật giáo đã đi vào cuộc đời, đã tồn tại trong lòng dân tộc. Ở các Thiền sư đời Trần, Thiền lý và Thiền hành đã nhập làm một, không phân biệt, chỉ còn lại Trí Huệ Bát Nhã, dùng nó bằng nhiều hình thức khác nhau, bằng mọi phương cách khác nhau, để phục vụ nhân sinh.
Trong Phật giáo Trúc Lâm không phải là hình ảnh những Thiền sư ngồi yên lặng tham Thiền nhập định, bởi vì xét cho cùng, đó cũng chỉ là một công đoạn, một phương tiện, tạo điều kiện cho những người tu hành Thiền bước đầu đi vào con đường nhận chân thực tánh, chứ chưa phải là phương cách thể hiện Thiền. Và nói theo ngôn ngữ của vị tổ sư Thiền nổi tiếng Bồ Đề Đạt Ma thì "đối với tôi, chỉ đạt đến Thiền khi ta được Phật tánh của chính mình...". Sự kiến tánh cũng giống như đồ ăn, cũng giản dị và lập tức như thế, người ta không bao giờ lý thuyết viển vông chung quanh sự nuốt đồ ăn ấy, ta biết nuốt hay không biết nuốt, chỉ có thế thôi!
Như vậy, thấy được Phật tánh, đã giác ngộ, không còn xem nặng cái ta vị kỷ nhỏ nhen, mà tấm lòng, tình thương đã đặt trọn vẹn vào tha nhân, thì mọi hành động hoàn toàn vì dân, vì nước, phải chăng cũng chính là hình ảnh thể hiện tinh thần của một con người đạt được đạo Thiền và hành Thiền?
3) Kế thừa sự nghiệp nổi bật này, tinh thần
nhập thế và tư tưởng Thiền Trúc Lâm cũng được thể hiện lại mạnh mẽ, rõ ràng và
cụ thể hơn qua sự xuất hiện của một đạo giáo: Bửu Sư Kỳ Hương tại vùng đồng
bằng sông Cửu Long, vùng đất cuối cùng của tổ quốc, nơi chứa đựng những tinh
hoa của nhiều thế hệ, của nhiều luồng văn hóa, văn minh thế giới. Với Bửu Sơn
Kỳ Hương, một lần nữa, Thiền tông Việt
Gần đây hơn, thế kỷ XIX, danh nho Trịnh
Hoài Đức còn lưu lại bài thơ Thiền tặng Hòa thượng Viên Quang (trụ trì đầu tiên
của tổ đình Giác Lâm). Bài thơ nổi tiếng ấy có hai câu thơ kết nói lên tinh
thần Thiền của một danh hào, là hiệp tổng trấn Gia Định thành: "Vãng sư hà
túc luận, đại đạo hợp như thị" (Chuyện xưa nói làm gì, đạo lớn thảy như
vậy). Đạo lớn thảy như vậy, là an nhiên mà hòa nhập được vào đời. Đạo lớn thảy
như vậy là đều phải sinh hóa theo cái đạo của dòng đời vô cùng vô tận (2). Tinh
thần này cũng là tinh thần của Thiền tông Việt
Còn nữa, hình ảnh này của Thiện Chiếu và câu nói: "Phật Pháp thị nhập thế nhi phi yếm thế, từ bi nãi sát sinh dĩ độ chúng sinh", và hành động của Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để đấu tranh cho Đạo pháp và dân tộc là những hình ảnh đã đi vào lịch sử Phật giáo của Thiền tông Việt Nam.
4) Tóm lại là một trong những Thiền phái
tiêu biểu cho Thiền tông Việt Nam, những Thiền sư của phái Trúc Lâm cũng như
những Thiền sư khác của Việt Nam đều đã thể hiện chất Thiền của mình qua hành
động: "Thiền là hành động" là một trong những đặc điểm của Thiền tông
Việt Nam. Vận dụng, tiếp thu, kế thừa có sáng tạo, đạo Phật Bửu Sơn Kỳ Hương
cũng đã đi vào lòng dân, không còn tổ chức giáo hội, mỗi người đã trở thành một
"Thiền sư", một người hành Thiền ngay trong cuộc sống của chính mình.
Tính chất hòa nhập vào cuộc đời, đã làm cho thiên tông Việt
Ngày nay tinh thần Thiền tông Việt Nam càng
bàng bạc trong mỗi người mang tấm lòng vì dân vì nước, quyết cống hiến, hy sinh
trọn cuộc đời mình cho sự nghiệp cao cả, cho hạnh phúc của toàn dân và vì độc
lập của tổ quốc. Có quá đang hay không khi cho rằng đấy cũng chính là những
"Thiền sư" tiếp nối vẻ vang tinh thần Việt
Ghi chú
(1) Phạm Công Thiện: Tiểu Luận Về Bồ Đề Đạt Ma,
(2) Cao Tự Thanh: Về Bài Thơ của Trịnh Hoài Đức, Tập san Phật Đản PL. 2536.
(Trích từ Tuệ Trung Thượng Sĩ với Thiền
Tông Việt