
Tam tạng nghĩa là ba giỏ chứa đựng. Trong 45 năm truyền Ðạo, Ðức Phật đã giảng dạy biết bao nhiêu điều quý báu. Các môn đệ của Ngài đã nghĩ tới việc ghi lại những lời thuyết giảng đó và ý nguyện này đã trở thành thực tế vài tháng sau khi Ðức Phật nhập Niết Bàn.
Giáo lý của Ngài được ra đời và chia thành Tam Tạng (Ti-Pitaka) gồm có : Kinh Tạng (Sutta Pitaka) Giới Tạng (Vinaya Pitaka), Luận Tạng (Abhidhamma Pitaka).
Tam tạng là ba phần cốt tuỷ của kinh sách đạo Phật và được truyền lại trọn vẹn nhất chính là Tam tạng tiếng Pali, có lẽ xuất phát từ một bản của Trưởng lão bộ (sthaviravādin) ở Trung Ấn.
Kinh tạng bao gồm các bài giảng của chính đức Phật hoặc các đại đệ tử và có 2 hệ như sau :
Kinh Nam truyền (Nikaya) dịch từ tiếng Pali và được xem là gần gũi với lời Phật dạy và có năm bộ :
1. Trường bộ kinh (dīgha-nikāya).
2. Trung bộ kinh (majjhima-nikāya).
3. Tương ưng bộ kinh (saṃyutta-nikāya).
4. Tăng chi bộ kinh (aṅguttara-nikāya)
5. Tiểu bộ kinh (khuddaka-nikāya).
Ngoài những bộ kinh trên ra, Kinh Nam truyền còn có bốn bộ khác như : Trường A-hàm, Trung A-hàm, Tăng Nhất A-hàm, và Tạp A-hàm.
Kinh Bắc truyền có các bộ điển hình như sau : Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Bảo Tích, Đại Tập, Kim Cang, Bát Nhã...
Luật tạng là phần thứ hai của Tam tạng, và cũng được xem là tạng sách cổ nhất chứa đựng lịch sử phát triển của Tăng già và các giới luật của người xuất gia, ra đời vài năm sau khi Phật nhập Niết bàn. Luật tạng có nhiều hệ khác nhau như Luật tạng của Thượng toạ bộ, Pháp Tạng bộ, Thuyết nhất thiết hữu bộ.
Luận tạng cũng được gọi là A-tì-đạt-ma chứa đựng các quan niệm đạo Phật về triết học và tâm lý học. Luận tạng được hình thành tương đối trễ, có lẽ là sau khi các trường phái đạo Phật tách nhau mà vì vậy, nó không còn giữ tính chất thống nhất.
Theo truyền thuyết, Kinh tạng và Luật tạng bằng tiếng Pali được viết lại trong lần kết tập thứ nhất (năm 480 trước Công nguyên). Upāli nói về Luật và Ananda trình bày giáo pháp và đã trở thành nền tảng căn bản của hai tạng này.
Theo một số tài liệu khác thì Luận tạng cũng hình thành sau lần kết tập thứ 3, toàn bộ Luận Tạng Pali được chính thức đúc kết, gồm 7 bộ, trong đó bộ Katha-Vatthu do Ngài Moggaliputta-Tissa (Pali), Mục Kiền Liên Tử Ðế Tu soạn.
Ngoài văn hệ Pali, còn các các tạng kinh, luật bằng Phạn ngữ, như Thuyết nhất thiết hữu bộ (sarvāstivādin) lưu truyền, ở những vùng Tây Bắc Ấn Độ.
Kinh sách của các tông phái khác như Đại chúng bộ (mahāsāṅghika) và Pháp Tạng bộ (dharmaguptaka) ngày nay chỉ còn trong bản chữ Hán và tiếng Tây Tạng.
Các kinh sách quan trọng của Phật giáo Trung Quốc và Nhật Bản phần lớn đều xuất phát từ Pháp Tạng bộ. Các bộ này không xếp thành hệ thống nghiêm khắc như những tạng Pali và qua thời gian cũng có thay đổi. Danh mục cũ nhất về các Kinh tạng vào năm 518 ghi lại 2113 tác phẩm. Toàn bộ kinh sách đó được in lại lần đầu trong năm 972.
Đạo Phật đã có một lịch sử không đồng nhất về sự đa dạng của Thánh điển, trong giáo lý cũng như thực hành. Nhưng Tạng Thánh điển là trọng tâm của Phật giáo. Tam tạng nghĩa là ba giỏ chứa đựng. Bởi vì, ban đầu đức Phật giảng pháp theo phương pháp truyền miệng từ thầy đến trò. Sau đó, lời dạy của Ngài được viết trên những chiếc lá và được kết lại và cất trong ba cái giỏ. Do đó ba cái giỏ này chính là cái nôi ban đầu để phân loại các bản viết tay nói về : Kinh tạng | Luật tạng | Luận tạng.
Đạo Phật không hẳn chỉ là những hình ảnh của các vị sư mặc áo cà sa vàng, tay lần tràng hạt và tụng kinh ở các chùa chiền, mà Đạo Phật là con đường sống, gắn chặt với sự hiểu biết trạng thái tâm thức, nguyên nhân của mọi khổ đau và ý thức được rằng con đường duy nhất để chấm dứt mọi khổ đau, đó là hiểu rõ bản chất của hiện hữu và chấm dứt luân hồi.
Những đề tài này trong các kinh căn bản có giải thích rõ ràng, dành cho tất cả những người con Phật, để hiểu được tính siêu việt của đạo Phật này.
Kính bút
TS Huệ Dân
Thân tặng ban biên tập và đọc giả trang Đạo Phật Ngày Nay