Câu 1: Làm sao để biết mình chưa được tự tại giải thoát ?
- Thực ra thì từ xưa tới nay, hết thảy những người có xác thân bị trói, không ai không biết rằng chính mình đã bị trói, nên không ai không căm hờn oán trách. Đến khi được mở trói cũng không ai không tự biết mình đã được mở trói, nên không ai không tự vui mừng, chỉ trừ những người điên.
Trên nguyên tắc, hình như ở thân hay ở tâm cũng không thể khác hơn. Nhưng, khi vào thực tế, thì phần xác thân với phần tâm không hoàn toàn hẳn như thế ? Ai cũng biết, có những người đang trong đau khổ trói buộc mà vẫn hãnh diện tự cho là vui là giải thoát. Nên ít nhứt cũng phải có cách biết. Nếu khi mình bị đau khổ trói buộc mà không tự biết tự hay, thì khi được giải thoát làm sao biết !? Nên cần nhất phải ý thức cho được nổi niềm bẩn chật đau khổ của chính mình, mới nên nói tới chuyện giải thoát.
- Một con heo được chủ nuôi săn sóc, nâng niu cho ăn uống đầy đủ. Mặc dù mục đích là nuôi cho lớn để bán làm thịt, nhưng việc chưa xảy ra, đương sự làm sao biết được, nếu vô ý thức đợi khi việc đã vỡ lở thì dù có trời Phật hiện trước mặt cũng không phương cứu chữa.
- Một con chó, chủ nhà nuôi bắt giữ nhà bỏ đi không được, đói không cho ăn, chỉ xua ra đồng để tìm đến những nơi phóng uế. Con chó không thể nào không oán trách căm hờn. Thế mà có những thứ chó, còn hãnh diện lấy đó làm vui ! Thế mới biết, trói buộc bằng cảnh nghịch mà còn có kẻ không biết, thì trói buộc bằng cảnh thuận lại há gì biết được sao ? Jésus có nói : “Rất vô phúc cho các ngươi, bây giờ các ngươi sướng để rồi các ngươi sẽ khố !”.
Thế mới biết : “Vầng trán chưa từng nhăn nheo vì sạm nắng, gót chân chưa dẫm nát gai chông, chén cơm chưa đẫm mùi nước mắt, dòng sinh mệnh chưa từng ăn hoàn sắt nóng, uống nước đồng sôi, thì mùi thế sự chưa đã thèm, thì thử hỏi làm sao máu thánh hiền nổi dậy cho được !?”.
Tuy nhiên, đây chỉ mới là phần sâu rộng, trên thực tế trong việc hạ thủ công phu của Pháp VÔ NIỆM còn có những điểm tế nhị hơn :
a)- Khi hạ thủ công phu đến một lúc biển lòng sóng lặng gió yên, mặt phẳng của Chơn Tâm được trải ra cho ta trực tiếp với bổn tánh. Đến đây chừng như xong việc, nhưng không hẳn thế. Có thể vì ta tỉnh táo quá chừng, tiếp xúc thẳng với Chơn Tâm Bổn Tánh, để rồi lọt vào kẻ hở có chủ thể, có khách thể của nhị nguyên tương đối, chớ không phải kiểu như mình uống nước, lạnh nóng tự hay. Hoặc cảm giác thanh lương an lạc nầy kéo dài được độ 5 - 10 phút, rồi vọng niệm sóng lòng lại tiếp tục phủ lên. Đó là một điểm để cho ta biết việc giải thoát chưa xong vậy.
b)- Khi hạ thủ công phu tiến được đến mức biển lòng sóng lặng gió yên, nhưng không phải trong suốt im lìm như “muôn dặm không mây muôn dặm trời”, mà là tựa như sương mờ che khuất rặng núi, như sáng sớm mặt trời chưa lên, như trăng rằm bị chuyển mưa. Đấy là điều thứ hai cho ta biết chưa hoàn toàn giải thoát, hãy còn ở trong chân trời của ông hổn độn.
c)- Mặc dù suốt trong đi đứng nằm ngồi ta thấy hình như thênh thang vô sự, tâm thể phẳng lặng như tờ, nhưng có lúc phát lên cao hứng tựa như kinh Bà La Môn nói : Xưa kia chúng ta ở trên cõi trời sung sướng, nhìn xuống dưới nầy thấy ánh sáng không biết ra sao, cao hứng muốn xuống coi cho biết. Xuống đây mắc kẹt không về được. Đây là điều thứ ba, để biết được ta chưa giải thoát.
d)- Hoặc đột ngột bị hoàn cảnh dồn ép vào ngõ bí, không lựa là cảnh thuận hay cảnh nghịch, tinh thần trở nên lạng quạng nhất thời chỗ đứng bị lung lay.
LỤC TỔ HUỆ NĂNG có nói : “Niệm trước mê là chúng sanh, niệm sau ngộ là Phật, mới hồi nảy đắm cảnh là phiền não, bây giờ lìa cảnh là Bồ Đề”. Lại nói : “Các ngươi hãy thận trọng, đừng khai tri kiến chúng sanh...”. Như thế nghĩa là sao ? Nghĩa là bổn tánh vốn không chúng sanh hay Phật, vốn nguyên chất như vậy. Cho nên hễ động dụng theo chúng sanh, theo tướng theo điên đảo, qui y với xác thân là thành chúng sanh. Còn động dụng theo Phật theo Tánh, theo chánh biến tri, theo hướng nội là thành Giải Thoát (Phật). Cho nên mặc dù khi tâm thể được Vô Niệm cũng phải ý thức hàm dưỡng để đừng Khai Tri Kiến Chúng Sanh. Tức là trong cuộc sống hằng ngày, ta cũng ăn cũng uống cũng sinh hoạt, đi đứng nằm ngồi mà lòng vẫn thảnh thơi vô sự. Khi xúc duyên tiếp cảnh, động dụng sáng suốt phân minh, không bị mê lầm chạy lệch ra ngoài vòng bổn tánh. Đến mức độ mà Bồ Tát ĐẠI HUỆ nói trong Kinh Lăng Già là : “Kim thế hậu thế tịnh” tức là vĩnh viễn thanh tịnh. Đây là điều thứ tư, để cho ta biết được là giải thoát hay chưa vậy?
Câu 2: Tâm vọng có thể tu sao ?
Đúng như thế. Chỉ có nhắm vào tâm vọng mà nói chuyện hạ thủ công phu. Tại sao ?
Giả sử chúng sinh không hề quên đi bổn tánh, thì tâm vọng làm gì có. Đã không có tâm vọng, thì làm gì có tâm chơn, và tâm với Tánh là 2 hay 1 cũng không còn thành vấn đề, vậy lấy đâu để tu ? Nhưng khi đã có tâm vọng mới có chuyện tâm chơn, vì bổn tánh bị tâm vọng che khuất đi, giống như cụm mây nhỏ che khuất mặt trời, bề trên vẫn sáng, bề dưới tối. Cho nên, không nhắm vào tâm vọng để tu đều là pháp hướng ngoại, không phải con đường thẳng tắt nữa.
Phải biết rằng, tâm vọng hay tâm chơn chẳng qua cũng chỉ là một pháp trong vạn pháp của bổn tánh, chỉ vì phát triễn có mất chính thường hay không mà thôi.
Một chúng sanh khi bị khổ đau phiền não dày vò, tự mình cảm thấy bất ổn nên mới nói tới chuyện chọn đường tìm pháp để tu. Chính hồi ấy cũng là một thứ tâm vọng, nhưng là tâm vọng đã bắt đầu chuyển hướng. Kinh Lăng Nghiêm có nói : “Ngay hồi tính trừ vọng, chính hồi đó là vọng, đến bao giờ tâm cuồng vọng ngừng dứt tức là giải thoát” . Như thế không nhằm vào tâm vọng mà gỡ, mà tu vậy dựa vào đâu để chấm dứt khổ đau, thoát vòng tục lụy ?
Câu 3: Như thế nào là minh tâm kiến tánh ?
-Tất cả ngôn ngữ văn tự chẳng qua chỉ là một thứ dụng cụ tạm bợ bất toàn. Điểm quan trọng của câu hỏi nầy ở ý của người muốn hỏi là sao ?. Sự thực đáng lẻ phải nói là “tự minh bổn tâm tự kiến bổn tánh” mới đủ ý nghĩa. Tại sao ? Vì đây là tự mình mình biết, tự mình mình hay, tựa như người uống nước vào trong bụng cảm biết được sự lạnh nóng, chứ không phải cái biết trong thế hai tướng.
Nói minh tâm đây có bao gồm hai ý nghĩa :
1.- Tự thấy được tâm vọng của chính mình, nó đang tự ngôn tự ngữ, tự nói tự rằng rối rối rít rít không bao giờ ngừng dứt.
2.- Khi tâm vọng ngừng dứt, biển lòng sóng lặng gió yên, tâm thế vô niệm xuất hiện, mặt thật của tâm hiển bày, tự mình trực nhận mà thấy được. Đó là minh được Chơn Tâm. Thế là cả tâm chơn và tâm vọng của chính ta, ta đều nhận được. Xa hơn nữa, suốt đi đứng nằm ngồi khi tâm chưa động dụng, thì tâm thể như Hư không. Khi có động dụng, nếu động dụng theo điên đảo, theo mê, đam chấp theo tướng thì gọi là nghịch dụng hay chúng sinh dụng. Nếu động dụng theo Ngộ, theo chánh biến tri, xứng theo bổn tánh, thì gọi là thuận dụng hay Phật dụng. Mà Phật dụng thì luôn luôn được rỗng rang rời rảnh, khi xúc duyên chạm cảnh động dụng phân minh.
Xa hơn nữa, nhờ có minh tâm mà trực nhận được chính thân tâm mình cùng với bao la vô tận vốn nằm tròn trong cái thế tuy không phải một nhưng không phải khác. Vốn nó có cái lẽ đồng nhất tương quan quân bình trật tự biến hóa lưu thông chớ không phải khác. Nên khi tâm vọng dấy khởi, thì thấy tâm với Tánh hình như hai. Đến khi Tâm Chơn xuất hiện, thì thấy Tâm Với Tánh hình như một. Đến đây, trong ta có tất cả, cũng như trong tất cả đều có ta, chỉ có “động dụng Mê” hay “động dụng Ngộ”, mở hiểu biết theo chúng sanh hay mở hiểu biết theo Phật mà thôi.
Người xưa muốn nghiệm biết xem coi có Minh Tâm Kiến Tánh hay chưa, đại khái có hai cách :
- Hoặc trắc nghiệm bằng cơ phong, không bao dung lý trí, tức thì hỏi tức thì đáp, không chấp nhận dần dà suy nghĩ. Nếu còn thời gian suy nghĩ là chưa toàn bích, chưa nhập diệu, việc chưa rồi.
- Hoặc nhìn suốt cả động dụng hằng ngày trong đi đứng nằm ngồi, để biết được người đó đã thuần thục hay chưa.
Câu 4: Tu hành được Minh Tâm Kiến Tánh là xong chưa ?
- Chúng sinh là sản phẩm của đại tự nhiên mắc liền vào bao la vô tận. Đại tự nhiên vốn vô thỉ vô chung, không đầu không đuôi không khúc giữa. Con người giải thoát là tự trả về với trật tự thiên nhiên, không còn vận dụng theo ý riêng nữa. Vậy lấy đâu mà nói là xong hay chưa xong. Như thế đủ biết nói xong hay chưa xong hoàn toàn nhắm vào tâm mê vọng mà nói. Sau khi tâm mê vọng dứt rồi, từ đây về sau đều thuộc về pháp thị hiện. Hoặc thị hiện thuận hay thị hiện nghịch, để thành diệu dụng mà thôi. Phương chi con sư tử một tuổi tuy vẫn đầy đủ gan ruột, tướng tá oai vệ của một con sư tử, nhưng nếu so sánh với con sư tử già nhất định không thể không có chỗ khác.
Câu 5: Làm sao để biết chắc con đường tu của mình là thẳng tắt và chính xác ?
- Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm có một ví dụ : Đức Phật dùng một cái khăn thắt lại thành nhiều gút, rồi nắm hai mối lại hỏi Ngài A Nan : “Nếu muốn gỡ phải làm sao?”. Ngài A Nan thưa : “Phải bắt từ ngoài mà gở lần trở vào trong đến bao giờ hết gút”. Đức Phật bảo : “Đúng thế ! Đúng thế !” Tâm đã vọng tạo thành trói buộc thì không thể không căn cứ vào tâm vọng mà mở. Như thế không phải là việc làm chính xác sao ? Chỉ có điều là mở có phưng pháp, có kỹ thuật hay không mà thôi. Nếu có phương pháp và kỹ thuật tốt, thì kết quả sẽ được nhanh chóng và dễ dàng.
Khi ta đã ý thức được, vì mê nên cấu tạo thành khối tâm vọng bao hàm cả không gian và thời gian tâm lý. Nay quay hẳn trở vào, căn cứ vào tâm vọng mà gở, áp dụng “thân chính giác” và “kỳ tình” làm lợi khí, thì sao mà không thẳng tắt chính xác được ? Phương chi người xưa có nói, khi lội trở ra thì biển hận muôn trùng, nhưng quay hẳn vào thì lập tức thấy bờ mé. Như thế thì còn gì nghi ngờ nữa chứ?
Thật không ai ngờ sinh thế của một con đĩa với sinh thế của một khối vọng tâm giống hệt nhau.
Con đĩa vì tế bào ngang, và nơi sinh sống của nó ở dưới nước. Nếu đem cắt nó ra từng đọan, rồi cho đất ẩm ướt vào chôn dấu kỹ lưỡng. Ít lâu sau đào lên, mỗi một khúc kéo dài ra thành một con đĩa, để ngọ ngoạy chen lấn lẫn nhau. Nhưng, nếu người ta chơi rắn mắt, bắt nó lộn ngược bề trong ra ngoài, nó liền tức khắc chết.
Thật vậy, khối vọng tâm muôn đời nếu ta chống lại nó bằng cách hướng ngoại hay phân tán, nó sẽ đứt đoạn từng khúc mà biến thành linh tinh để khuấy rối chúng ta, mà Thiền học gọi là 50 thứ ma chướng. Nhưng, nếu ta quay hẳn trở vào mà hạ thủ công phu, thì chúng nó hoàn toàn bị phân hóa, để ta dễ bề hóa giải hay tiêu diệt. Đây quả là một định tắt hoàn toàn chính xác.
Câu 6: Quan Niệm Về Thân Xác và Kỳ Tình có gì bí mật đâu, mà sao lại có khã năng tiêu hóa Vọng Niệm hiệu lực đến thế ?
- Mục đích của hạ thủ công phu tu hành là nhắm vào việc tiêu hóa tận nguồn cội của khối vọng tâm muôn thuở (=Hoặc+Nghiệp+ Khổ) . Tâm mê nên đam chấp lấy thân, nhà Phật gọi là chấp ngã. Vì chấp ngã, nên mới có cái chuyện dựng đứng cái TÔI. Nay muốn phá trừ tâm vọng, chỗ bí yếu duy nhứt là làm cách nào, để có thể tách rời sự đam chấp ấy, để tâm với thân có thể là hai mà cũng có thể là một.
Ý thức Quan Niệm Về Thân Xác (=thân chính giác) và phát khởi Kỳ Tình là vạch một luồng tách bạch rẻ đôi giữa thân và tâm vọng. Bởi vậy, nếu một người tu mà ý thức sâu xa chính chắn kỹ lưỡng về Khu Xác Quan Niệm và Kỳ Tình (=nghi tình) một cách thường trực nằm sâu tận đáy tâm não sẳn sàng, thì đối với vấn đề rẻ đôi giữa thân và tâm vọng của người đó khẳng định sẽ rất dễ dàng, hễ động dụng là thành công.
Người xưa có nói : “Không biết bổn tâm học Đạo vô ích”. Còn ngày nay lại có người nói : “Không biết tự thân học Đạo vô ích” là tại mẹo nầy !
Bởi vì khối tâm vọng lấy đam mê xác thân để tồn tại, nay giữa thân và tâm vọng bị tách làm đôi, tự nhiên muôn niệm của tâm vọng đều lập tức bị tiêu hóa. Phương chi chỉ ý thức về Khu Xác Quan Niệm thôi cũng đã đủ là một thế mẹo tâm lý để tách rời thân và tâm vọng, đà đàng nầy lại còn bồi thêm Kỳ Tình giống như một con đường có lú lấp vừa mới được vạch xong lại cho thêm một ban đi tém dẹp thúc đẩy sâu vào cho con đường rẽ thêm rộng rải thênh thang. Do đó, khối vọng tâm bị lộn ruột vở toang giống như đĩa bị lộn bề trái ra ngoài, tự nó phải chết mất.
Quả thật, Quan Niệm Về Thân Xác và Kỷ Tình là một thứ diệu dược rất mầu nhiệm, một kỹ thuật siêu đẳng để tách rời thân với tâm vọng, nếu khéo vận dụng, thì thành công dễ dàng.
Câu 7: Kinh nói : “Bổn tánh chúng sinh vốn ngậm chứa vạn pháp” (bao gồm cả hửu tình và vô tình) nên gọi là “Hàm Tàng Thức”... Thế thì cái chứa trong lòng của chúng sinh lẽ ra cũng tự nhiên, thế sao phải có chuyện điều chỉnh lại ?
- Xưa, khi HUỆ MINH (T.Tọa Minh) đuổi kịp LỤC TỔ HUỆ NĂNG và thỉnh pháp. Tại sao LỤC TỔ không giải thích mà chỉ giáng võn vẹn có một câu hỏi : “Hồi chẳng nghĩ thiện chẳng nghĩ ác, chính hồi đó cái gì là Bản Lai Diện Mục của Thượng Tọa MINH ?”. Như thế không phải là bổn tánh của chúng sinh vốn tự thanh tịnh, vốn có khã năng sinh ra vạn pháp sao ?
Khi chưa động dụng, thì tâm với Tánh vốn không hình tướng, vốn không thể phân, cũng không thể hợp. Nhưng khi đã động dụng tất có động dụng Mê hoặc động dụng Ngộ. Động dụng Mê là chúng sinh dụng, là xứng thân. Còn động dụng Ngộ là Phật dụng là xứng tánh dụng. Xứng Tánh dụng thì rỗng rang rời rảnh, tỉnh táo sáng suốt thường xuyên. Xứng thân dụng, thì chèn ép, ồn ào, lao xao lầm lẩn, khổ đau phiền lụy. Như thế há không phải tuy vẫn ngậm chứa vạn pháp mà khi đã nghịch dụng là biến dạng rồi đó sao ? Bản thể tuy là một, nhưng tướng dụng lại khác xa. Nên mới có việc chuyển thức cho thành trí, chuyển thức hàm tàng thành ĐẠI VIÊN CẢNH TRÍ. Chuyển cái tâm đam chấp như máy chụp hình cho trở thành cái tâm giải thoát như gương sáng, cho đến chỗ chuyễn và tướng chuyển cũng không còn nữa. Thế là Phật không khác gì chúng sinh mà vẫn khác xa vậy !
Câu 8: Người tu Tâm có nên xem thường xác thân nầy không?
- Bất cứ một pháp nào ở trên đời nầy, chính nó vốn sẳn có một tầm vóc giá trị đúng y như nó đang là, không có vấn đề tầm thường hay không tầm thường. Sở dĩ có xem thường hay không xem thường là vì chính con người không thật sự hiểu nó, mà hóa ra có chủ trương lệch lạc. Thử hỏi, nếu không thân, thì còn tu cái gì nữa ? Từ xưa tới nay có ai nói Hư không tu hay không ? Hay nói anh XOÀI anh ỔI tu. Giả thử không có thân lấy đâu để nói tâm vọng tâm chơn ? Không có tướng lấy đâu để nói “MỘT LÀ TẤT CẢ, TẤT CẢ LÀ MỘT”, “MỘT TỨC TẤT CẢ, TẤT CẢ TỨC MỘT”, trên đầu kim có đủ Tam Thiên Đại Thiên thế giới.
Khi chưa có tướng lấy đâu để có Mê và Ngộ, có thời gian và không gian ... Khi chưa có cái TÔI, chưa có cái biết của TÔI, thì mọi vật ra sao vốn không thành vấn đề. Nhưng, khi đã có TÔI, có cái biết của TÔI, thì muôn vạn vấn đề đổ xô kéo tới. Quả thật, TÔI là trung tâm của vấn đề. Đã có TÔI mới có Mê, có Mê mới có thời gian không gian. Có Mê và có thời gian không gian mới nói có tu có Ngộ. Vậy ai là người dám bảo trên đường đời, trong dòng thế tục, xác thân tứ đại nầy đối với người tu đâu không phải là con long mã để đưa TAM TẠNG đi thỉnh kinh hay chiếc thuyền con để cho ta vượt dòng sóng gió ? Mặc dù mới mấy bửa trước đây, chính ta đã dùng nó làm hệ lụy cho ta và người khác !? Thế mới biết, đi chưa đến TÂY PHƯƠNG mà định bỏ đói con long mã không cho ăn, không cho tắm; chưa qua được bờ bên kia mà đã nghĩ tới chuyện hủy bỏ chiếc thuyền, thì nào có khác chi kẻ đã vượt qua bờ bên kia rồi mà ngồi đó tiếc rẻ chiếc thuyền không muốn lên bờ giải thoát !.
Câu 9: Trường hợp không thể phát khởi nổi Kỳ Tình là vì sao ?
- Vì không biết rõ vọng tâm dính mắc liền với xác thân nguy hiểm thế nào, nên vấn đề thân giác (=Quan Niệm Về Thân Xác) không ảnh hưởng sâu vào tâm não. Do đó, mà KỲ TÌNH khó phát khởi hoặc phát khởi yếu, cho nên phải nghiên cứu kỹ, nếu biết rõ thì sẽ không còn khó khăn nữa.
Câu 10: Đối với khối vọng tâm muôn thuở, ngoài cách áp dụng pháp Vô Niệm (=Giải Thoát pháp) để hạ thủ công phu, còn có pháp nào hay hơn nữa không ?
- Thực ra, dùng pháp Vô Niệm hay Pháp Giải Thoát để hạ thủ công phu cũng chỉ là pháp thứ hai, Tại sao ? Sở dĩ có ra khối vọng tâm muôn thuở là tại cái thấy mê lầm buổi ban đầu của chúng sinh chỉ lục đục xoay quanh theo sự lợi hại của bản thân, lấy cái TÔI làm trụ cốt, nên càng ngày càng bẩn chật khó khăn, mất hẳn tầm mắt thấy xa nhìn rộng, làm cho khối vọng tâm càng thêm sức mạnh. Nếu ai có đủ tầm mắt thấy xa nhìn rộng đúng sự thực, thì khối vọng tâm không còn hiệu lực nữa. Bởi vậy, NGŨ TỔ có nói với các đệ tử của Ngài rằng : “Các người suốt ngày chỉ lo cúng bái làm phúc. Đến giờ phút chót, bổn tánh nếu mê thì phúc nào cứu được!?” Hay như có người hỏi Tổ BỒ ĐỀ ĐẠT MA : “Đồ tể còn nghiệp sát sanh, cư sĩ còn vợ con dâm dục làm sao thành Phật được ?. Tổ đáp : “Đây không bàn đến vợ con dâm dục hay đồ tể sát sanh, mà chỉ nhằm vào việc thấy Tánh. Một khi thấy được bổn tánh rồi, thì nghiệp dâm nghiệp sát tự rỗng lặng”. Cũng vì thế mà LỤC TỔ HUỆ NĂNG đến với NGŨ TỔ HOẰNG NHẪN một cách hết sức tự nhiên với bài kệ họa vận với bài kệ Ngài THẦN TÚ :
“Bồ Đề vốn không phải cội,
Gương sáng cũng không phải đài,
Bổn lai không một vật,
Lấy gì bám trần ai”.
Thế là được trúng tuyển !.
Chính vì thế cho nên, nếu có một cách nhìn thật sâu rộng nhẹ nhàng (thể hội sâu khắc 100%), để buông xã, thì tự nhiên vọng tâm không còn thành vấn đề nữa.
Thời nay, chỉ vì không có được cách nhìn như thế, nên bất đẳc dĩ phải dùng pháp thứ hai mà thôi.
Có ai ngờ, hồi Tết Mậu Thân có một cậu trai con một của một bà lão bị tử nạn... Khi qua cơn khói lửa, nhiều người đến thăm hỏi chia buồn, bà có nói một câu : “Nếu không ai chết chắc tôi sẽ chết theo con tôi rồi, nhưng khi thấy người ta chết nhiều quá bỗng dưng việc con tôi chết hết thành vấn đề trong tâm tôi nữa”. Ôi !. Nếu không có điều kiện thấy suốt nhìn khắp, mà cũng không thực hành được pháp thứ hai (Vô Niệm Pháp), thì chỉ còn có nước chờ pháp độ nghịch theo kiểu bà lão nói trên mà thôi vậy !
Câu 11: Tu pháp Vô Niệm nầy có được vãng sanh về Tịnh Độ không ?
- Nếu câu nói : “Tự tánh là nghĩa A DI ĐÀ, duy tâm là Tịnh Độ. Muốn thanh tịnh quốc độ trước phải thanh tịnh cái tâm, tùy theo tâm được thanh tịnh thì quốc độ được tịnh”, là nghĩa cứu cánh, thì tu pháp nầy quyết định sẽ được Tịnh Độ.
Còn như đặt vấn đề Tịnh độ ngoài tâm theo chiều hướng ngoại xa tít tận trời Tây, thì pháp Vô Niệm nầy thuộc về pháp hướng nội, so với tinh thần hướng ngoại, hai thế trái ngược nhau làm sao hợp lại mà cùng bàn được ? Vẫn biết rằng Đạo vốn không có gần với xa, nhưng hướng nội và hướng ngoại hai thế muôn trùng cách biệt.
Câu 12: Pháp Vô Niệm với pháp Tịnh Độ, pháp nào thẳng tắt hơn?
- Gốc bệnh ở chỗ nào thì nhắm vào đó mà chữa trị, bệnh ở tại tâm quay vào tâm mà chữa. Đây là một định tắt đã có nói từ trước. Giờ đây, nếu so sánh để biết thẳng tắt hay không thẳng tắt, vậy thử hỏi bệnh ở tại tâm mà không quay hẳn theo chiều hướng nội để chữa, lại quay ra theo chiều hướng ngoại qua 10 muôn ức cõi nước hướng về mặt trời lặn để tìm kết quả. Sự thật hai việc là như thế, còn thẳng tắt hay không thẳng tắt, xin nhường cho diễn đàn chung nhận xét
Câu 13: Với lý luận “Đới nghiệp vãng sanh”, ông nghĩ thế nào ?
- Nếu có uế độ, thì có Tịnh Độ là lẽ tất nhiên. Uế độ là hậu quả của nghiệp nhiễm, còn Tịnh Độ là hậu quả của nghiệp tịnh. Cả hai nghiệp nhiễm và nghiệp tịnh cũng như cõi uế và cõi tịnh đều thuộc lãnh vực nghiệp cả. Người có đạo giải thoát phải là người không nghiệp, cho nên đới nghiệp có được vãng sanh hay không, chưa phải là vấn đề quan trọng, mà chỗ quan trọng là ở chỗ có được giải thoát hay không mà thôi vậy.
Câu 14: Người ta nói “Kiến Tánh Thành Phật” là thuộc về PHẬT PHÁP THÂN, khác với PHẬT BÁO THÂN xa lắm, làm sao sánh kịp. Nghĩa nầy thế nào ?
- Ta hãy nghe Đức LỤC TỔ nói về ba thân : “Pháp thân là bổn tánh. Báo thân là trí tuệ giác ngộ thấy được bổn tánh. Hóa thân là y cứ nơi Pháp thân và Báo thân mà hiển hạnh”. Vậy thử hỏi, có chúng sanh nào thành Phật Báo Thân, mà bỏ qua Pháp Thân được không ? Phương chi, Pháp, Báo, Hóa Thân là một cách nói khác của Thể, Tướng và Dụng. Cả ba đều không rời nhau. Vậy thử hỏi, có Tướng mà không cần đến Thể và Dụng được không ? Như thế đủ biết, lìa bổn tánh đi tìm Phật Báo Thân chẳng khác nào leo cây tìm cá vậy !
Câu 15: Ai cũng nói tu Thiền khó lắm không chắc ăn, nên theo Tịnh Độ cho dễ. Nghĩa đó thế nào ?
- Thế nào là dễ ? Thế nào là khó ? Nghĩa nói dễ đây, có phải là ỷ lại vào nghe trong Kinh nói về nguyện lực của PHẬT A DI ĐÀ, rồi mỗi ngày niệm hơ hà mấy câu rồi bỏ đi nằm nghỉ, để đến khi lâm chung bề nào cũng có Phật đến rước có phải thế không ?
Chúng ta hãy nghe Kinh nói : “Nầy XÁ LỢI PHẤT, không thể dùng thiện căn phước đức nhân duyên nhỏ mà được sanh về cõi nước đó... Nếu có thiện nam tín nữ nào nghe nói về PHẬT A DI ĐÀ, bèn chấp trì danh hiệu, hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày... cho đến bảy ngày, một lòng không loạn, thì người nầy khi sắp mạng chung có PHẬT A DI ĐÀ cùng các Thánh chúng hiện ở trước. Người nầy khi lâm chung, nếu tâm không điên đảo thì được vảng sanh về TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC... Giờ đây ta hãy xét :
Đã nói không được dùng thiện căn phước đức nhân duyên nhỏ, đó là yếu tố thứ nhứt. Nói chấp trì danh hiệu... Chấp nghĩa là cầm , trì nghĩa là nắm. Nghĩa là giữ chặt lấy danh hiệu, thế tức là niệm. Niệm thuộc về tâm. Tụng thuộc về miệng. Đây là yếu tố thứ 2.
Lại nói tâm chẳng điên đảo thì mới được vảng sanh. Vậy thế nào là điên đảo ? Là hướng ngoại. Vậy đã hướng ngoại thì làm sao tâm chẳng điên đảo ? Đây là yếu tố thứ ba.
Xin hỏi, tại sao tiền thân của PHẬT A DI ĐÀ là Tỳ Kheo PHÁP TẠNG, và tại sao PHẬT A DI ĐÀ còn được gọi là PHÁP GIỚI TÀNG THÂN A DI ĐÀ PHẬT ? Như thế nếu lìa bổn tánh, để tìm PHẬT A DI ĐÀ theo phép tụng niệm của đà hướng ngoại có thể dễ dàng gặp được PHẬT A DI ĐÀ không ? Phương chi, nếu nói tu Thiền là khó là căn cứ vào đâu ? Quả thật, quả thật ! Nếu không có phương pháp tốt, kỹ thuật hay khéo, thì biết đâu sẽ không dễ như hàng ngày ăn cơm bữa. Cho nên đối với người có nghiên cứu kỹ đường lối tu sẽ không còn nghi ngờ để nói khó nói dễ nữa.
Và Kinh đâu không nói : “Y theo văn chữ mà giải nghĩa thì Phật ba đời cũng chết hết. Nếu lìa Kinh một chữ là bị lọt vào đường tà”( Y Kinh giải nghĩa tam thế chư Phật oan, ly Kinh nhứt tự tức đồng ma thuyết), là nghĩa thế.
Câu 16: Niệm Phật bằng miệng ra tiếng, lần chuỗi, với mặc niệm của Pháp VÔ NIỆM khác nhau như thế nào ?
- Niệm bằng miệng ra tiếng hay lần chuổi, trong đó hàm ẩn 2 ý nghĩa : một là tập trung tinh thần theo chiều hướng ngoại, hai là đồng thời bài tiết bớt những hơi độc do ăn uống, sinh hoạt, tâm tư tạo nên, để đuổi ra khỏi cơ thể đến mức bình thường của một con người, hầu cho khí độc nầy xung động lên đầu, kích thích thần kinh các bộ phận ở thân cũng như nội tạng, thúc đẩy ta rơi vào con đường của các nghiệp ác.
Một người khi chưa tu mà giấc ngủ nặng nề trằn trọc, ác mộng diễm mộng không yên, đó là triệu chứng của chất độc vừa kể trên nó kích thích. Sau khi siêng tu pháp môn nầy ít lâu sẽ thấy giấc ngủ yên lành, và thỉnh thoảng nằm mơ trong lãnh vực mình tu. Đó là bằng cớ hơi độc đó đã bài tiết được phần nào. Đến khi tu thật lâu, thật tinh tiến, trong giấc ngủ sẽ không còn mơ nữa. Nhưng, nếu không phải là giấc ngủ tĩnh táo, thì trái lại đó là một bằng cớ ta đã lạm dụng pháp nầy làm cho nhiệt lực trong cơ thể xuống dưới mức bình thường, để rơi vào bầu trời của ông hỗn độn vô ký, mặc dù tạm thời có thể trấn an sức thúc đẩy của người khác.
Còn phép mặc niệm của Pháp Vô Niệm có thể nói là Thiền Tịnh song tu, là một phương pháp, một kỹ thuật để đi đến kết quả TÂM THỂ VÔ NIỆM tức là giải thoát, trong đó bao hàm ý nghĩa hoàn toàn hướng nội, đóng bít các cửa, nuôi dưỡng năng lực, biến hóa chất độc của vọng tâm cho trở thành Vô Thượng Bồ Đề, hai pháp khác nhau một trời một vực.
Câu 17: Kinh nói : “Tu phải trải qua 3 A Tăng Kỳ kiếp”, so với pháp VÔ NIỆM ý nghĩa ra sao ?
- Mỗi khi chúng ta lật Kinh Phật ra đều bắt gặp bài kệ, mà câu đầu là : “Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp”, chớ không thấy nói Vô thượng thậm thâm vi diệu lý. Như thế nghĩa là sao ? Có phải Phật chứng lý rồi lập pháp, để cho chúng sanh nương nơi pháp mà ngộ lý không ?
Tại sao Phật bảo không một chúng sanh nào mà không tu ? Nếu mỗi chúng sanh đều đang tu và đã tu, vậy thử hỏi, từ khi có mặt, chúng sanh đó đã phải tu, cho đến khi hiện tướng thành Đạo là bao nhiêu kiếp ?
Nói “A Tăng Kỳ” nghĩa là vô lượng. Vô lượng nghĩa là không thể tính đếm. Mà không thể tính đếm, thì một cái không thể tính đếm với ba cái không thể tính đếm khác nhau thế nào ? Như thế, có phải chăng nghĩa tu đã trải qua 3 A Tăng Kỳ kiếp chỉ có giá trị trong phạm vi của người vận dụng pháp, chớ không có nghĩa y theo văn ngữ mà tin.
Hơn nữa, nếu y vào nghĩa Phật nói, không chúng sanh nào mà không tu, thì nghĩa chữ tu nầy không phải chỉ để ám chỉ riêng cho một số người tu ở trong chùa, mà là tất cả bò bay máy cựa, đồ tề sát sinh, sát nhân giặc cướp v.v... đều tu. Và nghĩa của chữ tu nầy không thể hiểu khác hơn là, nó thấy điều lợi ích trước mắt cho nó, nó nhảy bổ vào. Khi thấy tai hại, nó lại dang ra, cứ kinh nghiệm chuyền níu thế mãi đến bao giờ đục nước cùng đường, mới bắt đầu rơi vào chánh vị của chữ tu. Từ khi rơi vào chánh vị của chữ tu, mà nếu chưa phải hoàn toàn đắc pháp ( =như thực Ngộ Đạo), thì từ đây cho đến khi thành Đạo lại phải trải qua chừng bao nhiêu kiếp nữa ?
Như thế đủ biết câu nói 3 A Tăng Kỳ kiếp nầy quả là một ẩn ngữ bao hàm hai nghĩa. Một là đa số người tu, sự thực họ chẳng có tu gì hết, và hai là nếu tu theo pháp ngoài tâm hay theo xuẩn động, thì đều là làm việc phí công vô ích hết cả.
Câu 18: Hiện nay đang có không biết bao chủ thuyết như : Thiền xuất hồn, chuyển luân xa, Thiền nhân điện, Thiền Yoga, Luyện đơn, Cơ bút, sấm giảng... làm cho quần chúng không còn biết đâu là phải trái, đâu là chánh tà. Nay muốn cứu vãn tình thế, lôi cuốn chúng sanh trở về đường chánh, xin hỏi làm sao có thể làm được ?
- Bổn tánh của chúng sinh vốn không dư không thiếu, đầy đủ cả vạn pháp kể cả pháp thuận và pháp nghịch đều có giá trị và tác dụng của nó. Cho nên, nói tất cả pháp đều là pháp Phật, không độ thuận thì độ nghịch, không có pháp chúng sinh thì pháp Phật hết thành vấn đề. Không có pháp Phật, thì pháp chúng sinh cũng không lấy đâu để hiển thế độ nghịch. Vạn pháp đã vốn thị hiện, dòng đời đang lúc đổ dốc, thế mê của chúng sanh nếu không có pháp phản tá, bỗng dưng muốn theo hạnh thuận, mà kéo lại theo thế ngược dòng, chắc chắn sẽ hoài công vô ích ? Sao bằng cứ để tùy sở thích tha hồ đổ dốc, kiến bò miệng chén có mất đi đâu ? Việc chúng sinh, chúng sinh cứ làm, việc của Phật, Phật cứ nói ? Đến lúc đã thèm theo thế chúng sinh rồi, thì trở về với Phật. Cho nên hai pháp vốn nương nhau mà tồn tại, thị hiện để độ rỗi chúng sinh, tuy thấy trái nhau nhưng kỳ thực là giúp nhau. Vì thế pháp Phật vốn thường hằng và liên tục không hề gián đoạn. Nếu thế gian nầy, tất cả đều như ý không hề có chướng ngại, vị tất đã là hay ? Nên, nếu thiếu pháp chúng sanh, thì pháp Phật không có giá trị. Pháp chúng sinh càng ngặc nghèo thì pháp Phật càng nhiệm mầu và vi diệu. Người ta nói : “Đạo cao một thước, ma cao một trượng”, vậy tại sao không thể “Ma cao 1 thước, Đạo cao 1 trượng”? Cũng như nói : “Thầy hay gặp quẻ mắc”. Vậy tại sao không nói :”Không có quẻ mắc khó có thầy hay”?. Cho nên hai pháp phải nương tựa lẫn nhau mà hiển dụng. Người ta hay đến than với tôi, đời Mạt pháp tà thuyết bạo hành, nhưng riêng tôi, tôi nói : “Tâm chúng sinh đang hồi nguy ngập nên pháp Phật siêu tuyệt không thể lường ? Chỉ có những người căn cơ nhỏ hẹp mới băn khoăn than vãn ?”.
Câu 19: Tu Pháp VÔ NIỆM có điều gì cấm kỵ hay không ?
- Có, có cấm kỵ cái điều cấm kỵ. Vì sao ? Từ xưa đến nay, hễ trâu thì tìm về với trâu, ngựa chạy theo ngựa, bợm nhậu về với rượu, bợm hút về với á phiện, ma túy, kẻ muốn giải thoát thì về với pháp giải thoát. Cho nên, nếu thiếu hiểu biết, thiếu lòng thành, rồi dùng ý riêng ghét bừa làm bậy, thì sẽ thất bại sa đọa. Còn như đủ hiểu biết, đủ lòng thành, có ý chí xuất trần và kham nhẫn thực hành chính xác, thì bảo đảm hoàn toàn thành công.
Câu 20: Người ngộ được bổn tánh rồi, khi va chạm với sự thật, khó mà điều động được mình. Thí dụ như va chạm với “danh lợi, sắc tình” hoặc cảnh trái chướng, như thế có thể dùng pháp nầy để điều chỉnh được không ?
- Tất cả cuộc sống đau khổ bệnh tật làm mất hẳn sức tự tại của con người, không đâu không bởi khối vọng tâm muôn thuở nó điều động. Tâm vọng là tâm đắm chắp, cho nên dù người đã ngộ được bổn tánh rồi mà vẫn chưa điều động nổi được mình, tức là người nầy chưa triệt ngộ. Do đó, người nầy ngoài việc tinh tấn hạ thủ công phu ra, còn phải thường trực giác ngộ sâu cái thân tứ đại vật chất (Khu Xác Quan Niệm), để cho vọng tâm với xác thân không còn sức kết cấu chặt chẻ nữa, thì khi va chạm với sự thật mới không còn nặng nề khó điều động nữa.
Câu 22: Xin phân biệt rõ ý nghĩa Y ĐẠO và THIỀN ĐẠO ?
- Tất cả chúng sinh cũng như con người đều là tác phẩm của trật tự thiên nhiên, tự nó không thể không ứng hợp với trật tự thiên nhiên, chỉ vì tâm mê, nên dong ruổi theo đà hướng ngoại, tạo thành thế vặn tréo cho cuộc sống, làm cho cả thân lẫn tâm đều bệnh.
Trật tự thiên nhiên là Đạo, cuộc sống thuận với trật tự thiên nhiên là cuộc sống có Đạo. Nay cuộc sống thuận với trật tự thiên nhiên đã bị đổ vỡ, cả thân lẫn tâm đều bị khổ đau bệnh tật. Y khoa chỉ căn cứ vào lằn mức chánh điên đảo, cắt khứa lấy một khúc bệnh thân để chữa trị, và dựng lên danh từ Y Khoa. Còn Thiền học cứ xoắn ngay căn cội của tâm mê mà lập ra một lối giải thoát gọi là Thiền Đạo. Còn Y Đạo, thì gốc của nó vốn là là đạo giải thoát, nó bao gồm cả pháp giới vật chất, thâm nhập vào tận nguồn cội tâm linh. Cho nên Y Khoa chỉ là ngọn ngành.
Chữ Y tùy thuộc vào đứng riêng một mình hay có chữ ghép mà định nghĩa giá trị khác nhau. Riêng một chữ Y, thì có nghĩa là điều chỉnh sửa trị.
Con người là một tác phẩm bao gồm cả hai hệ thống vật chất lẫn tinh thần, vì thế nên công việc điều chỉnh hay sửa trị không thể chỉ ở hệ thống vật chất hay tinh thần không mà đủ. Phương chi nhiều cá nhân họp lại thành gia đình, nhiều gia đình họp lại thành xã hội, họp xã hội thành quốc gia, thành thế giới. Và thế giới bao gồm cả hữu tình và vô tình, tất cả đều hoàn toàn lệ thuộc vào trật tự thiên nhiên.
Cá nhân bệnh thì gia đình bệnh. Gia đình bệnh thì xã hội bệnh. Xã hội bệnh thì quốc gia bệnh. Mỗi quốc gia đều bệnh thì thế giới sụp đổ đau thương, vạ lây đến cả hữu tình và vô tình.
Cuộc sống của chúng sanh không thể chỉ nói tâm không mà đủ, mà trong đó còn bao gồm ăn uống sinh hoạt, hoàn cảnh, khí hậu, tâm tư, xã hội, truyền thống... Huống chi còn thêm điều kiện vật chất năm châu họp chợ nữa. Do đó, Y Đạo có một cái nhìn suốt từ bao la vô tận xuyên qua vạn hửu, thâm nhập vào tận thân tâm của chúng sanh, vào đến tế bào, vi trùng, vi khuẫn, nguyên tử..., để thấy đến toàn bộ hệ thống trật tự, để biết thật rõ khi có bịnh tật, dù bệnh ở thân hay ở tâm, đều tìm đến tận chỗ kẹt mà gỡ, hầu trả về với trật tự thiên nhiên, mà thỏa mản với cách nhìn không hai. Đó là chỗ khác và giống nhau giữa Y Đạo và Thiền Đạo vậy.
Lại nữa, cách làm việc của Y Đạo không chỉ nhắm vào mục đích giải thoát con người, mà còn bao hàm cả hữu tình động vật nữa. Về chữa trị, nhỏ từ bệnh thân bệnh tâm, bệnh cá nhân, bẹnh gia đình, bịnh xã hội, lớn đến bịnh quốc gia, thế giới đều không thể lọt qua tầm mắt nó được. Về đặc điểm tương đồng với Thiền Học là cái chuôi cuộc sống đều nằm ở TÂM THỂ VÔ NIỆM vậy.
Câu 23: Tự mình có thể trắc nghiệm lấy trình độ tiến triển của Tâm Linh không ?
- Muốn tự trắc nghiệm lấy mình, trên dặm đường hạ thủ công phu, không cách nào khác hơn là phải y cứ vào vọng tâm mà nghiệm xét. Hãy nhận định kỹ trạng thái vọng tâm của ta khi mới bắt đầu hạ thủ công phu, thì tự khắc thấy được trình độ dần dà tiến triển, cuộc sống tinh thần càng ngày càng được ổn định hơn, yên vui hơn. Chuyện nầy không đợi người ngoài cuộc nhận biết mới là chắc, vì việc làm đã có phương pháp, có bản đồ, có kỹ thuật. Cứ y vào đấy là thấy ngay. Mà cũng có thể hoặc bạn đồng tu bên cạnh thấy được.
Tác giả: HT. Thích Minh Thiền