Tịnh Độ tông là tông phái cùng với Thiền và Mật tông có ảnh hưởng trong Phật giáo Trung Quốc hiện nay. Tịnh Độ tông là tông phái chủ trương pháp môn "Vãng sanh Tịnh Độ". Pháp môn tu Tịnh Độ ở Trung Quốc khởi thủy từ khi Ngài Tuệ Viễn lập ra hội "Bạch Liên xã" ở Lư Sơn vào đời Đông Tấn, chủ trương quán tưởng niệm Phật, tức quán niệm tướng tốt của Đức Phật A Di Đà.
Sơ Lược Lịch Sử Hình Thành Và Phát Triển Các Tông Phái Phật Giáo Trung
Quốc
Thích
Tâm Khanh
Dẫn nhập
Từ Ấn Độ du nhập vào Trung
Quốc, Phật giáo đã nhanh chóng hòa nhập vào các hệ tư tưởng văn hóa - tôn giáo
bản địa. Trong quá trình du nhập, hình thành và phát triển có thể nói Phật giáo
Trung Quốc đã tạo ra bản sắc riêng so với nguồn cội Ấn, đồng thời đã ảnh hưởng
mạnh mẽ đến hệ thống tư tưởng - văn hóa Trung Quốc. Công lao ấy thuộc về các
bậc cao Tăng của nhiều thế hệ Phật giáo Trung Quốc. Đây là ý kiến nhận định
chung của các nhà nghiên cứu văn hóa - tư tưởng Trung Quốc: Giáo sư Zenryu
Tsukamoto trong tác phẩm The Path of the Buddha đã nhận định: "Chính nhiều
các thế hệ Thiền sư trong nỗ lực truyền giáo đã đưa tư tưởng và nghệ thuật Phật
giáo vào trong nền văn hóa Trung Quốc và đem lại sự thay đổi vĩ đại trong văn
hóa, triết học, văn học, nghệ thuật và ngay cả trong các tập tục truyền thống
của dân tộc Trung Quốc" (1).
Nội dung
I/ Phật giáo và Nho gia: sự tiếp
xúc của hai nền văn hóa Á Đông
Văn hóa Trung Quốc và Ấn Độ là hai nguồn tư
tưởng văn hóa tối cổ của Á Đông. Trước khi Phật giáo, đại diện cho luồng tư
tưởng văn hóa Ấn Độ có mặt tại Trung Quốc thì ngay tại bản địa đã hình thành
nền văn hóa khá cao. Trong hệ tư tưởng lúc bấy giờ, Nho gia theo tư tưởng hiện
thực "lễ nghi chủ nghĩa" được xem là hệ tư tưởng chủ đạo. Tư tưởng
Nho gia được khởi đầu từ thời Xuân Thu - Chiến Quốc (kéo dài từ 722 - 221 TTL)
với các học thuyết của Bách gia chư tử và hoàn thiện trong khoảng 400 năm thời
kỳ nhà Hán. Từ khi Phật giáo Ấn Độ và Tây Vực được truyền tới Trung Quốc vào cuối
đời Hậu Hán, có thể nói đây là thời điểm tiếp xúc đầu tiên của hai nền văn hóa
Á Đông. Dân tộc Trung Quốc theo tinh thần hiện thực của tư tưởng Nho gia tiếp
nhận Phật giáo, và do vậy ngay từ đầu Phật giáo ở Trung Quốc đã có những nét
đổi thay so với cội nguồn Ấn Độ mà biểu hiện rõ là sự hình thành và phát triển
của các tông phái Phật giáo.
II/ Sơ lược lịch sử hình thành và phát
triển của các tông phái Phật giáo Trung Quốc
Khác với Phật giáo Ấn Độ, quá trình hình
thành và phát triển các tông phái Phật giáo Trung Quốc luôn đi liền với công
tác phiên dịch Thánh điển. Theo quá trình phiên dịch, các tông phái Phật giáo
Trung Quốc thường y cứ và cổ xướng theo tư tưởng của kinh luận để lập tông. Tuy
quá trình phân phái và lập tông đã manh nha từ thời Đông Tấn nhưng hoàn chỉnh
việc lập tông thì rõ nét nhất là ở thời đại
1.
Tỳ Đàm tông (Câu Xá tông)
Tỳ Đàm (nói đủ là A Tỳ Đàm) là tên gọi tắt
của Trung Hoa về Abhidharma. Trước khi luận Câu Xá (Abhidharma Kosa) được dịch
sang Hán ngữ thì đã có một học phái mệnh danh là Tỳ Đàm tông. Người đầu tiên
nghiên cứu về A Tỳ Đàm là Ngài An Thế Cao ở đời Hậu Hán. Các tác phẩm của A Tỳ
Đàm được dịch sang Hán ngữ rất sớm trong giai đoạn từ 383 đến 434 TL như
"A Tỳ Đàm Cửu Thập Bát Kết Kinh" của Ngài An Thế Cao, "A Tỳ Đàm
Tâm Luận", "A Tỳ Đàm Bát Kiền Độ Luận"... của Ngài Tăng Già Đề
Bà đời Tiền Tần. Các học giả thuộc Tỳ Đàm tông nổi bật có thể kể đến là các
Ngài Huệ Tập, Tăng Mân, Pháp Vân, Tăng Tung... Tuy nhiên, khi Luận Câu Xá của
Ngài Thế Thân được Ngài Chân Đế (Paramartha) dịch sang Hán ngữ từ năm 563-567
TL, sau đó là Ngài Huyền Trang dịch từ 651-654 TL và được truyền bá rộng rãi
thì Tỳ Đàm tông được thay thế bằng Câu Xá tông.
2.
Thành Thật tông
Tông này được lập và cổ xướng từ thời Ngài
La Thập theo tư tưởng của Luận Thành Thật (Satyasiddhi), một bộ luận thuộc Tiểu
thừa Phật giáo. Bộ luận này do Ngài Ha Lê Bạt Ma (Harivarman) viết và được Ngài
Cưu Ma La Thập (Kumàrajìva) chuyển sang Hán ngữ thật sớm, vào 411-412 TL. Kể từ
thời Ngài La Thập về sau, không khí nghiên cứu học thuật của Thành Thật tông
được phát triển nhanh chóng. Trong khoảng từ 411 đến 498 TL đã có hơn 12 bộ sớ
giải của các môn đồ Ngài La Thập viết về Luận Thành Thật và đã có: "Hàng
trăm buổi giảng thuyết về bản văn này được truyền bá khắp Trung Hoa" (2).
Đến đời Lương (502-507) thì Thành Thật tông phát triển cực thịnh và được phổ
biến rộng rãi với công lao của ba ngài Pháp Vân, Trí Tạng và Tăng Mẫn. Trong
giai đoạn này, Thành Thật tông được xem là khuynh hướng Đại thừa. Thế nhưng,
vào đời Tùy, kể từ khi Ngài Gia Tường Đại Sư Cát Tạng nhận định Thành Thật luận
là bộ luận thuộc Tiểu thừa Phật giáo thì Thành Thật tông bắt đầu kém phát
triển. Đến đời Đường, Ngài Đạo Tuyên tuyên bố luận Thành Thật thuộc kinh Lượng
bộ, một tông phái Ấn Độ được xem là tiểu thừa, thì Thành Thật tông bước vào
thời kỳ suy vi và không còn phát triển ở các thời kỳ sau đó.
3.
Nhiếp luận tông (Pháp tướng tông)
Nhiếp luận tông (Samparigraha) là tiền thân
của Pháp tướng tông (Dharmalaksana). Nhiếp luận tông được thành lập từ khi Ngài
Chân Đế (499-569) dịch và giảng về bộ Nhiếp Đại Thừa luận
(Mahàyànasamparihraha) Nhiếp Đại Thừa Luận do Ngài Vô Trước viết vào thế kỷ V
(được Ngài Thế Thân chú giải) là bộ luận đầu tiên phát biểu học thuyết Duy
thức. Ngài Phật Thủ (Buddhasanta) dịch bộ luận này sang Hán văn lần đầu vào năm
531 TL, nhưng kể từ khi bản dịch của ngài Chân Đế vào năm 563 hoàn thành và do
nỗ lực truyền bá của Ngài thì Nhiếp Luận tông mới chính thức phát triển tại phía
Nam Trung Quốc. Sau khi Ngài Chân Đế viên tịch, do công lao của ngài Đàm Thiên
nên tông phái này cũng dần dần phát triển ở phía Bắc Trung Quốc. Đến đời Đường,
Ngài Huyền Trang đã dịch lại hai bản "Nhiếp Đại thừa luận" và "Nhiếp
Đại thừa luận thích", đồng thời theo học thuyết "Thành Duy Thức
luận" của Ngài Hộ Pháp mà thành lập và truyền giảng tư tưởng Duy Thức. Đệ
tử Ngài Huyền Trang là Ngài Khuy Cơ là người có công hệ thống hóa và chính thức
thành lập nên Pháp tướng tông. Hai sáng tác quan trọng của Ngài: "đại thừa
Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương" và "Thành Duy Thức luận thuật ký" là
căn bản của tông phái này. Nhiếp luận tông kể từ đời Đường đã được hòa nhập vào
Pháp tướng tông.
4.
Tam Luận tông
Tam luận là ba bộ Trung luận, Bách luận và
Thập nhị môn luận. Lịch sử của tam luận bắt đầu ở Trung Quốc với sự xuất hiện
của Ngài Cưu Ma La Thập. Ngài là người có công phiên dịch cả ba bộ luận trên
sang Hán ngữ. Quá trình truyền thừa của Tam luận tông bắt đầu từ thời Ngài Cưu
Ma La Thập và được phân thành hai giai đoạn:
Giai đoạn 1: Giai đoạn này được sử Phật
giáo Trung Quốc gọi là "Cổ Tam luận tông" gồm các Ngài Cưu Ma La
Thập, Đạo Sinh, Đàm Tế, Đạo Lãng (Tăng Lãng), Tăng Thuyên, Pháp Lãng. Trong đó,
Ngài Tăng Lãng là người có công tách hẳn Tam luận tông khỏi ảnh hưởng của Thành
Thật tông, và Tam luận tông kể từ Ngài Tăng Lãng đã có một nền móng thật sự.
Giai đoạn 2: là giai đoạn truyền thừa của
Ngài Cát Tạng. Ngài ngụ ở chùa Gia Tường nên thường được gọi Gia Tường Đại A
Cát Tạng. Ngài đã trước tác và biên soạn nhiều khá nhiều tác phẩm. Trong đó có
3 tác phẩm Tam Luận sớ, Tam Luận Huyền Nghĩa và Đại thừa Huyền Luận đã đem lại
một cái nhìn mới cho tông Tam luận. Do vậy, Tam Luận tông trong thời kỳ của
Ngài Cát Tạng được gọi là "Tân Tam Luận tông".
Cả hai giai đoạn trên kéo dài trong hai thế
kỷ thứ V và VI TL. Tuy nhiên, khi Pháp Tướng tông hưng khởi do công của các
Ngài Huyền Trang và Khuy Cơ thì Tam Luận tông tại Trung Quốc đã không còn phát
triển như trước mà được truyền sang và quảng bá tại Nhật Bản do công Ngài Tuệ
Quán (người Cao Ly) và sau đó là Phúc Lượng (người Nhật Bản). Tam Luận tông bắt
đầu có mặt tại Phật giáo Nhật Bản từ thế kỷ thứ XII.
5.
Hoa Nghiêm tông
Khai tổ chính thức của Hoa Nghiêm tông là
ngài Đỗ Thuận (551-640). Pháp danh của Ngài là Pháp Thuận nhưng vì Ngài họ Đỗ
nên thường được gọi là Đỗ Thuận. Tuy nhiên, trước khi Hoa Nghiêm tông chính
thức được thành lập ở đời Đường thì tại Trung Quốc đã có hai học phái là Niết
Bàn tông và Địa Luận tông.
Niết Bàn tông là học phái y cứ trên nội
dung của kinh Niết Bàn. Địa Luận tông là học phái chuyên nghiên cứu và truyền
giảng trên tinh thần và nội dung của tác phẩm "Thập Địa Kinh Luận",
bản luận giải của Ngài Thế Thân về kinh Thập Địa (Dasabhumi sutra) vốn là một
bộ phận của Kinh Hoa Nghiêm. Về sau do có nhận thức, giải thích khác nhau về
các chủ đề tư tưởng trong hai bộ kinh luận trên nên cả Niết Bàn tông và Địa Luận
tông đều được phân thành hai dòng phía Bắc và phía
6.
Thiên Thai tông (Pháp Hoa tông)
Thiên Thai là tên một hòn núi ở tỉnh Thai
Châu miền Nam Trung Quốc. Suốt trong hai thời đại Trần và Tùy, Ngài Trí Khải
(531-597) trú ở núi này và xiển dương kinh Pháp Hoa. Tông phái do Ngài thành
lập do vậy có tên Thiên Thai tông hoặc Pháp Hoa tông. Trước Ngài Trí Khải, kinh
Pháp Hoa vốn đã là bộ kinh được nghiên cứu rất kỹ ngay sau khi Ngài La Thập
phiên dịch xong bộ kinh này, gồm 7 quyển - 27 phẩm, vào năm 406 TL. Về sau,
Ngài Pháp Hiển từ Ấn trở về đã phiên dịch và bổ sung thêm phẩm Đề Bà Đạt Đa vào
nên mới có 28 phẩm. Trong giai đoạn đầu, quá trình hình thành giáo nghĩa của
Pháp Hoa tông có liên hệ tới việc nghiên cứu của Ngài Huệ Văn (505-577) về tư
tưởng: "Không - Giả - Trung trong Đại Trí Độ luận. Ngài đã dựa theo đó mà
lập tư tưởng: "Nhất tâm tam quán" (3). Phương pháp quán niệm này được
truyền bá mạnh do công của đồ đệ Ngài là Ngài Huệ Tư (514-577). Đồng thời Huệ
Tư còn đề ra pháp tu Thiền quán theo tư tưởng "chỉ quán nhất như",
tức chủ trương việc kiêm tu định và huệ. Tuy nhiên, chỉ khi truyền đến Ngài Trí
Khải thì giáo nghĩa Thiên Thai tông mới chính thức được kiện toàn. Kể từ đấy
tông này mới được gọi là Thiên Thai tông. Từ pháp tu quán "Nhất tâm tam
quán", Ngài Trí Khải đề ra một pháp tu quán mới là "Nhất niệm tam
thiên" (4). Sự nghiệp trước tác, chú sở của Ngài Trí Khải là một công
trình đồ sộ, nhưng nổi bật là ba bộ sách Pháp Hoa Văn Cú, Pháp Hoa Huyền Nghĩa
và Ma Ha Chỉ Quán; giải thích rõ ràng về yếu nghĩa kinh Pháp Hoa. Về sau ba bộ
này được Ngài Quán Đảnh (561-632), đệ tử truyền thừa của Ngài Trí Khải soạn tập
và thường được gọi là "Pháp Hoa Tam Đại Bộ". Sau khi Ngài Quán Đảnh
viên tịch, do sự ảnh hưởng mạnh mẽ của các tông phái khác như Pháp Tướng, Hoa
Nghiêm, Thiền và Chân Ngôn nên Thiên Thai tông đã suy yếu dần. Đến thế kỷ thứ
VIII, Thiên Thai tông được phục hưng do công của Ngài Trạm Nhiên (717-782) và
sau đó được Ngài Đạo Toại, đồ đệ của Ngài Trạm Nhiên dạy cho Ngài Tối Trừng
(người Nhật). Thiên Thai tông chính thức được truyền sang Nhật Bản kể từ Ngài
Tối Trừng.
7.
Mật tông (Chân Ngôn tông)
Chân Ngôn dịch nghĩa Phạn ngữ
"Mantra", nghĩa là "Bí mật giáo", giáo pháp không thể phát
hiểu bằng những ngôn ngữ thông thường. Chân Ngôn tông hay Mật tông phát xuất từ
Ấn Độ và được truyền tới Trung Quốc khá muộn. Vào thời Đông Tấn, tuy đã có một
vài bản kinh tiếng Phạn được các vị Tăng Ấn Độ như Ngài Cát Hữu (Srimitra),
Ngài Bạch Thi Lê Mật Đa La dịch sang Hán ngữ như Đại Quán Đảnh kinh, Khổng Tước
Vương Kinh... và rải rác các bài thần chú trong các kinh điển, nhưng đó không
phải là thuần túy Mật giáo. Phải đến đời Đường (618-907) thì Mật tông mới chính
thức du nhập vào Phật giáo Trung Quốc, khởi đầu với sự hiện diện của ba đại học
giả Ấn Độ là Ngài Thiện Vô Úy (Subhakarasimha, 637-735), Ngài Kim Cương Trí
(Vajrabodhi, 671-741), Ngài Bất Không (Anoghavajra, 705-774). Bộ kinh căn bản
của Mật tông là bộ Đại Nhật kinh được Ngài Thiện Vô úy dịch sang Hán ngữ với sự
trợ giúp của đệ tử là Ngài Nhất Hành (cũng là đệ tử của Ngài Kim Cương Trí,
638-727).
Sự truyền thừa của Mật tông tại Trung Quốc
tương đối giản đơn hơn các tông phái khác. Tuy vậy, tông này lại rất được các
triều vua Đường: Huyền Tông, Túc Tôn, và Đại Tôn ủng hộ. Đặc biệt là Ngài Bất
Không đều được ba đời vua trên trọng đãi. Các công trình phiên dịch kinh điển
Mật tông được tiến hành với qui mô đồ sộ. Theo sử Phật giáo Trung Quốc, Ngài
Bất Không cùng với các ngài La Thập, Chân Đế và Huyền Trang được gọi là
"bốn nhà đại phiên dịch" của Phật giáo Trung quốc. Không những trong
Phật giáo mà Mật tông còn ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực trong nền văn hóa Trung
Quốc như điêu khắc, kiến trúc, hội họa... Tuy nhiên, do chịu ảnh hưởng của nạn
Võ Tôn phế Phật vào cuối đời Đường (5) nên Mật tông của Phật giáo Trung Quốc bị
suy yếu trầm trọng nhưng lại được truyền sang Nhật Bản do thầy trò hai ngài Huệ
Quả (người Trung Quốc, đệ tử Ngài Bất Không) và Không Hải (người Nhật Bản theo
học với Ngài Huệ Quả). Ngài Không Hải là người sáng lập ra "Chân Ngôn
tông" của Phật giáo Nhật Bản.
8.
Thiền tông
Trong các tông phái Phật giáo Trung Quốc,
Thiền tông là tông phái có tầm ảnh hưởng quan trọng nhất đối với toàn bộ hệ
thống tư tưởng Phật giáo Trung Quốc từ đời Đường trở về sau. Đây là nhận định
chung của hầu hết các nhà nghiên cứu Phật học hiện nay. Nếu xét từ cội nguồn
thì hai phái chính trong hệ thống Thiền tông là Như Lai Thiền và Tổ Sư Thiền.
Như Lai Thiền được xem là phương pháp tu Thiền có cội nguồn từ Phật giáo Ấn Độ,
trong khi Tổ Sư Thiền lại có khuynh hướng được xem là sáng tạo riêng của Phật
giáo Trung Quốc và khởi nguyên với sự hiện diện của Ngài Bồ Đề Đạt Ma. HT Thích
Thanh Kiểm viết: "Ở Trung Quốc, đời Hậu Hán, Ngài An Thế Cao đã thông đạt
Thiền kinh và đã thực hành về Tiểu thừa Thiền. Nhưng tới khi Ngài La Thập dịch
kinh "Tọa Thiền tam muội" và sau đó Ngài Phật Đà Bạt Đà La (Giác
Hiền) dịch "Đạt Ma Đa La Thiền kinh" thì thời đại cơ vận Đại thừa
Thiền được nhanh chóng lưu hành. Trong tình thế ấy, lại xuất hiện một hệ thống
Thiền của Tổ Bồ Đề Đạt ma và trở thành nền tảng cho Thiền tông các đời
sau" (6).
Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) là thái tử thứ
3, con vua Kancipura xứ Nam Ấn. Theo lời dạy của thầy là Ngài Bát Nhã Đa La
(Prajnàtara), Ngài sang Trung Quốc vào đời Lương, khoảng năm 470-520 TL (7).
Theo phổ hệ truyền thừa của Thiền tông Ấn Độ, từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến
đời Ngài là thứ 28, nhưng Ngài được xem là người khai sáng của phổ hệ truyền
thừa Thiền tông Trung Quốc gồm: 1/Bồ Đề Đạt Ma. 2/Huệ Khả (? - 593) 3/ Tăng Xán
(? - 606) 4/ Đạo Tín (580 - 651) 5/ Hoằng Nhẫn (602-675). Bắt đầu từ Ngài Hoằng
Nhẫn, Thiền tông Trung Quốc đã bắt đầu phát triển cực mạnh với sự truyền giảng
của hai ngài Thần Tú (605-706) và Huệ Năng (được xem là Tổ thứ 6 của Thiền tông
Trung Quốc, 638-713). Ngài Thần Tú truyền giáo ở phương Bắc nên dòng Thiền này
gọi là dòng Thiền Bắc tông. Tương tự dòng Thiền của Huệ Năng được gọi là dòng
Thiền
Vào các thời đại Nguyên, Minh, Thanh, trong
khi một số tôn phái khác bị suy thoái dần do sự du nhập và phát triển mạnh mẽ
của Lạt ma giáo Tây Tạng thì Thiền tông lại trở thành tông phái phổ biến nhất.
Từ Trung Hoa Dân Quốc đến nay, Thiền tông vẫn là một tông phái chủ đạo của Phật
giáo Trung Quốc.
9.
Tịnh Độ tông
Tịnh Độ tông là tông phái cùng với Thiền và
Mật tông có ảnh hưởng trong Phật giáo Trung Quốc hiện nay. Tịnh Độ tông là tông
phái chủ trương pháp môn "Vãng sanh Tịnh Độ". Pháp môn tu Tịnh Độ ở
Trung Quốc khởi thủy từ khi Ngài Tuệ Viễn lập ra hội "Bạch Liên xã" ở
Lư Sơn vào đời Đông Tấn, chủ trương quán tưởng niệm Phật, tức quán niệm tướng
tốt của Đức Phật A Di Đà. Đến thời Nam - Bắc triều, Ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch bộ
"Vãng sanh Tịnh Độ luận" do Ngài Thế Thân trước tác và trở thành bộ
luận căn bản cho tông Tịnh Độ. Pháp tu Tịnh Độ của Ngài Bồ Đề Lưu Chi được Ngài
Đàm Loan kế thừa và truyền cho cao đệ là Ngài Thiện Đạo (613-681). Ngài Thiện
Đạo là vị có công hoàn thành giáo nghĩa của tông Tịnh Độ. Các tác phẩm của Ngài
viết như "Quán Kinh Sớ", "Vãng Sinh Lễ Tán", "Ban Chu tán",
"Quán Niệm Phật Môn", "Pháp Sự tán" bao hàm giáo lý tinh
yếu của Tịnh Độ tông, giải thích kinh Quán Vô Lượng Thọ, bộ kinh trọng yếu của
tông phái này.
Sau Ngài Thiện Đạo còn có pháp môn niệm
Phật của Ngài Từ Mẫn (Tuệ Nhật, 680-740) nhưng đã chịu ảnh hưởng của Thiền
tông. Từ Ngài Từ Mẫn trở về sau, giáo nghĩa Tịnh Độ có khuynh hướng "Thiền
Tịnh song tu". Tịnh Độ tông vẫn âm thầm phát triển theo khuynh hướng trên
và được hưng khởi mạnh mẽ vào thời nhà Minh do công của các Ngài Vân Thê Châu
Hoằng (1535-1615), Ngẫu Ích Trí Húc (1599-1655) và Đại sư Ấn Quang ở cuối đời
nhà Thanh tới thời Trung Hoa Dân Quốc.
10. Luật
tông
Luật tông là tông phái nương theo giới luật
mà thành lập nên có những điểm khác với tông phái khác. Giới luật là những qui
giới phải tuân thủ của giáo đoàn Phật giáo. Trước khi truyền vào Trung Quốc,
mỗi bộ phái Ấn Độ đều có giới luật của bộ phái mình. Thế nhưng, khi truyền đến
Trung Quốc chỉ có 4 bộ "Ma Ha Tăng Kỳ luật" do Ngài Pháp Hiển và Phật
Đà Bật Đà La dịch; "Thập Tụng luật" do hai Ngài Phất Nhã Đa la và Đàm
Ma Lưu Chi dịch; "Tứ phần luật" do Ngài Phật Đà Da Xá đời Diêu Tần
dịch; "Ngũ Phần luật" do Ngài Phật Đà Thập dịch là được lưu hành.
Dưới thời đại Nam - Bắc triều, việc nghiên cứu Thập Tụng Luật rất được thịnh
hành ở phương Nam; nhưng kể từ khi Ngài Huệ Quang ở Bắc Ngụy bắt đầu nghiên cứu
và truyền giảng Tứ Phần luật thì xu hướng theo Tứ Phần luật được hưng thịnh.
Trong suốt đời Tùy đầu đời Đường, qua sự nghiên cứu và giảng giải của các Ngài
Pháp Thông đời Bắc Ngụy, Ngài Đạo Phú, Ngài Tuệ Quang (468-537), Đạo Vân, Đạo
Huy, Trí Thủ (môn đệ của Ngài Đạo Vân), Hồng Tuân (đệ tử Ngài Đạo Huy) thì Tứ
Phần luật trở thành bản luật phổ biến của Phật giáo Trung Quốc. Đến đời Đường,
Tứ Phần luật tôn hoàn toàn được thành lập và chia thành ba phái: Nam Sơ tôn của
Ngài Đạo Tuyên, (môn đồ Ngài Huyền Trang, 596-667), Tướng Bộ tôn của Ngài Pháp
Lệ (569-635) và Đông Tháp tôn của Ngài Hoài Tố (624-697). Tuy nhiên, chỉ có Nam
Sơn tôn của Ngài Đạo Tuyên còn được duy trì và phát triển cho tới ngày nay.
Kết luận
Quá trình hình thành và phát triển của các
tông phái Phật giáo Trung Quốc luôn gắn liền với lịch sử văn hóa - tư tưởng
Trung Quốc. Trong mỗi giai đoạn lịch sử, ở từng thời đại và mỗi triều đại, sự
phát triển của các tông phái Phật giáo Trung Quốc như nước ở trong đại dương,
đôi khi lặng lẽ êm đềm nhưng cũng có lúc hưng khởi mãnh liệt. Sự hưng khởi của
tông phái này dường như là để bổ túc cho sự suy vi của một tông phái khác. Điều
này phản ánh trọn vẹn tinh thần Duyên khởi rất hiện thực của đạo Phật. Tuy
nhiên, một đặc điểm quan trọng cần lưu ý là không bao giờ có sự đối kháng đến
trở thành mâu thuẫn trong quá trình phát triển các tông phái của Phật giáo
Trung Quốc nói riêng và Phật giáo nói chung. Bởi lẽ toàn bộ quá trình ấy luôn
nằm trong tinh thần xây dựng những tư tưởng hướng nghiệm cho con người trong
quá trình sống - tu tập - đạt đến giải thoát. HT Thích Thanh Kiểm trong sách
Lịch sử Phật giáo Trung Quốc đã viết: "Giáo học của Phật giáo được cấu
thành bởi ba môn học là "Giới học", "Định học" và "Tuệ
học". Phật giáo Trung Quốc vì nghiên cứu về Tuệ học nên Tam Luận tông,
Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông được thành lập; vì tu tập về "Định
học" nên có Thiền tông ra đời; và nương theo "Giới học" để tu
trì nên có Luật tông xuất hiện (8). Đây có lẽ không phải là một đặc tính riêng
Phật giáo Trung Quốc mà còn là đặc điểm chung của toàn bộ lịch sử phát triển
Phật giáo từ Ấn Độ cho đến các quốc gia có Phật giáo trên thế giới và cả ở Phật
giáo Việt
Chú thích
(1) Kenneth W. Morgan, The Path of the
Buddha, Chapter V: Buddhism in
(2) J. Takakusu, The Essentials of the
Buddhism Philosophy (Xem "Các tông phái Phật giáo" bản dịch Tuệ Sỹ,
Tu thư Đại học Vạn Hạnh, 1973, tr. 147).
(3) Tam quán là "Không quán",
"Trung quán" và "Giả quán". Nhất tâm tam quán nghĩa là
trong một tích tắc của ý niệm đều có đầy đủ ba tính chất không, giả và trung.
(4) Nhất niệm tam thiên: Theo Ngài Trí Khải,
mỗi ý niệm mê vọng của con người đều bao hàm toàn thể thế giới, nói hẹp là 10
giới (Tứ Thánh và lục phàm), nói rộng là 3000 pháp, có nghĩa là toàn thể thế
giới. Ba tính Không, Giả, Trung trong mỗi ý tưởng đều có quan hệ mật thiết với
nhau, chúng thật ra chỉ là một. Ở đây, Ngài Trí Khải chủ yếu muốn nêu lên
phương pháp quán niệm trên để người tu tập có nhận thức đúng về bản chất của
tâm mình.
(5) Xem lại bài PHHT, Đại cương lịch sử
Phật giáo Trung Quốc, phần 2b.
(6) Thích Thanh Kiểm, Giáo trình lịch sử
Phật giáo Trung Quốc (Tài liệu giảng dạy của Học viện Phật giáo Việt
(7) Tài liệu của Thích Thanh Kiểm ghi
"khoảng năm 470" (Giáo trình lịch sử ... Sđd, t. 14) trong khi J.
Takakusu trong Essentials of Buddhism Philosophy lại viết "đến Trung Hoa
năm 520" (Xem "Các tông phái Phật giáo", bản Việt dịch của Tuệ
Sỹ, Tu thư Đại học Vạn Hạnh, 1973, tr. 304). Do vậy, chúng tôi ghi khoảng thời
gian ước định để học viên tiện việc tham khảo (tg).
(8) Thích Thanh Kiểm, Lịch sử Phật giáo
Trung Quốc, Thành hội PG TP. HCM ấn hành, 1991. tr 157.
(*) Sđd: Sách đã dẫn.
(*) TL: Tây lịch . TTL: trước Tây lịch
Sách tham khảo
1. Kenneth W. Morgan, "The Path of the
Buddha", Chapter V: Buddhism in
2. J. takakusu, The Essentials of the
Buddhism Philosophy (Các tông phái Phật giáo; bản Việt dịch của Tuệ Sỹ, Tu thư
Đại học Vạn Hạnh ấn hành 1991).
Gởi bởi tkl