Phật Giáo Trung Quốc

...Phật giáo được truyền vào Trung Quốc rất sớm, chủ yếu là theo hai con đường thủy và bộ từ phía Bắc và phía Nam của các nước Tây Vức vào thế kỷ đầu Tây lịch.

...Ca Diếp Ma Đằng (Kàsyapamátanga) và Trúc Pháp Lan (Dharmaraksa) là hai vị Tăng Ấn Độ đầu tiên đến Trung Quốc vào niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 10 (67 TL) thời vua Minh Đế Hậu Hán. Trong khi truyền đạo tại miền Bắc Ấn, hai Ngài đã sang Trung Quốc theo lời thỉnh cầu của phái đoàn 18 người do vua cử đến Tây Trúc tìm đạo. Khi hai Ngài tới Trung Quốc, vua Minh Đế rất tôn kính, vua cho dựng chùa Bạch Mã, là ngôi chùa đầu tiên ở Trung Quốc, để hai Ngài phiên dịch kinh điển. Tứ Thập Nhị Chương là bộ kinh đầu tiên được hai Ngài dịch tại chùa Bạch Mã.

...Các phong trào chấn hưng trong những thập niên đầu thế kỷ XX của Thái Hư Đại sư đã đem lại cho Phật giáo Trung Quốc luồng sinh khí mới. Từ đó đến nay, theo khuynh hướng ấy, Phật giáo Trung Quốc đã được phát triển nhanh chóng và trở thành một tôn giáo có tầm ảnh hưởng rất quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân dân Trung Quốc.

Phật Giáo Trung Quốc

Thích Tâm Khanh

* Dẫn nhập

Nếu xem Phật giáo như một thực thể văn hóa, tôn giáo sống động góp phần tạo ra văn hiến, văn minh nhân loại thì chính vì lý do này đã khiến Phật giáo có nhiều khuôn mẫu, hình thái rất khác nhau trong mỗi thời đại lịch sử và ở mỗi quốc gia khác nhau. Từ nguồn cội Ấn Độ, Phật giáo đã theo dòng thời gian truyền đi khắp nơi. Cách đây hơn 2000 năm, Phật giáo đã có mặt tại Trung Quốc. Trên phương diện tổng quát, quá trình du nhập phát triển của Phật giáo Trung Quốc có liên hệ mật thiết với lịch sử phát triển Phật giáo của các nước trong khu Vức, mà đặc biệt là Phật giáo Việt Nam. Do vậy, tìm hiểu về lịch sử Phật giáo Trung Quốc giúp chúng ta rất nhiều trong việc nghiên cứu lịch sử Phật giáo Việt Nam.

* Nội dung

I. Phật giáo du nhập vào Trung Quốc

1) Con đường du nhập của Phật giáo vào Trung Quốc

Về mặt địa lý, Phật giáo đã theo chân các nhà sư truyền giáo Phạm Tăng được truyền đến Trung Quốc theo hai ngả đường là đường bộ và đường thủy. Về đường bộ, chủ yếu là hai con đường giao thông lớn: phía Bắc và phía Nam của các nước Tây Vức. Về sau, giữa hai con đường trên, còn có con đường "Nhập Trúc cầu pháp" của Ngài Pháp Hiển. Về đường thủy thì chủ yếu là từ các hải cảng ở tỉnh Quảng Đông(1).

2) Niên đại du nhập

Hiện nay, có rất nhiều thuyết khác nhau đề cập đến niên đại du nhập của Phật giáo vào Trung Quốc. Có hai thuyết đáng tin tưởng hơn cả là thuyết Khẩu truyền Phật giáo của Y Tồn được chép trong sách Ngụy thư Thích Lão Chí và thuyết Niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 10 (67 TL) chép trong sách Hậu Hán Kỷ và sách Phật Tổ Thống Kỷ.

Theo thuyết thứ nhất thì Phật giáo được biết đến ở Trung Quốc sớm nhất cũng từ năm thứ 2 trước Tây lịch (niên hiệu Nguyên Thọ năm đầu, đời vua Ai Đế nhà Tiền Hán).

Theo thuyết thứ hai thì Phật giáo có mặt ở Trung Quốc từ năm 67 Tây lịch (niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 10, đời vua Minh Đế nhà Hậu Hán).

Từ hai thuyết trên, có thể nói Phật giáo được truyền vào Trung Quốc rất sớm, chủ yếu là theo hai con đường thủy và bộ từ phía Bắc và phía Nam của các nước Tây Vức vào thế kỷ đầu Tây lịch.

II. Đại cương lịch sử phát triển của Phật giáo Trung Quốc

1) Năm thời đại phát triển của Phật giáo Trung Quốc

Trên đại cương, một số nhà nghiên cứu sử học Phật giáo hiện nay(2) đã theo những nét đặc trưng của quá trình hoạt động Phật giáo mà phân lịch sử phát triển của Phật giáo Trung Quốc thành 5 thời đại là:

a/ Thời đại phiên dịch: từ khi Phật giáo bắt đầu truyền tới cho đến đầu đời Đông Tấn.

b/ Thời đại nghiên cứu: từ đầu đời Đông Tấn cho đến thời đại Nam Bắc triều.

c/ Thời đại kiến thiết: từ đời Tùy đến đời Đường.

d/ Thời đại kế thừa: kể từ đời Ngũ đại đến đời nhà Minh.

e/ Thời đại suy vi: từ đời Thanh trở về sau.

Đến thời đại Trung Hoa Dân quốc thì nhiều phong trào chấn hưng Phật giáo nổi lên tạo cho Phật giáo Trung Hoa cận đại có nhiều bước phát triển.

2) Các danh Tăng và các sự kiện Phật giáo nổi bật của Phật giáo Trung Hoa qua 5 thời đại

a/ Thời đại phiên dịch

 Phật giáo Trung Quốc thời kỳ này bao gồm Phật giáo ở các đời Hậu Hán (25 - 220 TL); Tam quốc (220 - 280 TL) gồm hai nhà Ngụy (220 - 265 TL), Ngô (222 - 280 TL) và Tây Tấn (265 - 317 TL).

Phật giáo Trung Quốc giai đoạn này chủ yếu lấy việc phiên dịch làm công tác Phật sự chính. Tuy ở mỗi triều đại, mức độ phát triển của Phật giáo có khác nhau, nhưng nhìn chung sự thành tựu của các công trình phiên dịch đã dần định hình, tạo tiền đề cho các công trình nghiên cứu ở thời đại sau. Trong thời đại này có các danh Tăng kiệt xuất xuất hiện với các công trình phiên dịch giá trị như sau:

Đời Hậu Hán (25 - 220 TL)

Ca Diếp Ma Đằng (Kàsyapamátanga) và Trúc Pháp Lan (Dharmaraksa) là hai vị Tăng Ấn Độ đầu tiên đến Trung Quốc vào niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 10 (67 TL) thời vua Minh Đế Hậu Hán. Trong khi truyền đạo tại miền Bắc Ấn, hai Ngài đã sang Trung Quốc theo lời thỉnh cầu của phái đoàn 18 người do vua cử đến Tây Trúc tìm đạo. Khi hai Ngài tới Trung Quốc, vua Minh Đế rất tôn kính, vua cho dựng chùa Bạch Mã, là ngôi chùa đầu tiên ở Trung Quốc, để hai Ngài phiên dịch kinh điển. Tứ Thập Nhị Chương là bộ kinh đầu tiên được hai Ngài dịch tại chùa Bạch Mã.

Sau hai Ngài Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan, được sự ủng hộ của Sở Vương Anh, người em khác mẹ của Hán Minh Đế, nhiều vị Tăng và cư sĩ người Ấn khác cũng tới Trung Quốc và tiếp tục các công trình phiên dịch kinh điển từ tiếng Phạn (chủ yếu là Bắc Phạn, Sanskrit) sang Hán ngữ như Ngài Trúc Phật Sóc (Sangha Buddha), cư sĩ An Huyền người nước An Tức (Parthia), Ngài Đàm Quả (Dharmaphàla) người Tây Vức... Nổi bật trong số đó là các Ngài An Thế Cao (Arsakes) và Chi Lâu Ca Sấm (Lokaraksa), đến Trung Quốc vào đời vua Hoàn Đế cuối đời Hậu Hán. Đặc biệt, có Ngài Nghiêm Phật Điều là vị tu sĩ người Trung Quốc đầu tiên tham gia vào công trình phiên dịch kinh điển. Phật giáo đã dần dần được phổ cập trong dân gian.

Đời Tam quốc (220 - 280 TL)

Sau đời Hậu Hán, Trung Quốc chia thành ba nước là Ngụy, Thục, Ngô. Phật giáo trong thời kỳ này phổ cập chủ yếu ở hai nước Ngụy và Ngô. Cũng như thời kỳ mới du nhập, các hoạt động Phật giáo ở thời kỳ này chủ yếu vẫn là các công trình phiên dịch kinh điển.

Ở nước Ngụy, có các bậc cao Tăng có công phiên dịch và quảng bá giới luật đầu tiên là các Ngài Đàm Ma Ca La (Dharmakàla) và Ngài Đàm Đế. Bộ Tăng kỳ giới bản của Ngài Đàm Ma Ca La và bộ Đàm Vô Đức Yết Ma là hai bản giới pháp căn bản đầu tiên của người xuất gia. Tuy vào thời Hậu Hán đã có tu sĩ người Hán, nhưng người Trung Quốc được thọ giới luật theo các pháp Yết ma đầu tiên lại là Ngài Chu Sĩ Hành, người nước Ngụy. Cũng chính Ngài là Tăng sĩ Trung Quốc đầu tiên sang Tây Vức để cầu pháp, là người mở đường cho các chuyến "nhập Trúc cầu pháp" của các thời đại sau này.

Các bậc cao Tăng thạc học của Phật giáo nhà Ngô nổi bật là Ngài Khương Tăng Hội và cư sĩ Chi Khiêm. Trước khi sang Ngô, Ngài Khương Tăng Hội (Kang Seng Hui) là một trong những vị Tăng sĩ Ấn Độ đã có công đưa Phật giáo vào Việt Nam (thời đó gọi là Giao Chỉ). Tác phẩm kinh điển của Ngài phiên dịch nổi bật còn lại đến ngày nay là Lục Độ Tập Kinh, cũng là nguồn sử liệu giá trị cho việc xác định niên đại du nhập của Phật giáo Việt Nam(3).

Đời Tây Tấn (265 - 317 TL)

Theo bộ sách Khai nguyên Thích giáo lục, Phật giáo đời Tây Tấn có nhiều vị Tăng sĩ rất có công trong việc phiên dịch Tam tạng, nhưng nổi bật hơn cả là Ngài Đàm Ma La Sát (Dharmaraksa, Hán dịch âm là Trúc Pháp Hộ).

Sau hơn 3 thế kỷ, Phật giáo đã phổ cập trong nhân dân. Các cơ sở vật chất của Phật giáo như chùa, tháp được xây dựng, số lượng Tăng Ni và tín đồ Phật tử tuy chưa nhiều nhưng đã đặt nền móng vững chắc cho các thời đại Phật giáo sau này. Nét đặc trưng chủ yếu của Phật giáo Trung Quốc thời đại này là các công trình phiên dịch kinh điển của các vị Tăng sĩ Ấn Độ cũng như Trung Quốc.

b/ Thời đại nghiên cứu

Về phương diện lịch sử, thời đại Phật giáo này bao gồm trong hai thời đại lịch sử Đông Tấn và Nam, Bắc triều. Trong cả hai thời đại lịch sử này, Phật giáo Trung Quốc ngoài công tác phiên dịch, đã dần bước vào nghiên cứu những giáo nghĩa trong kho tàng kinh luận Phật giáo. Xu hướng nghiên cứu này được bắt đầu từ thời Đông Tấn. Hòa Thượng Thích Thanh Kiểm đã nhận định: "Trong thời đại Đông Tấn, Phật giáo đều được phát triển trên cả hai phương diện hình thức tín ngưỡng và tư tưởng giáo học. Vì trong thời đại này có nhiều bậc Phạm Tăng từ Tây phương tới, lại có nhiều bậc cao Tăng của Trung Quốc xuất hiện"(4).

Các bậc cao Tăng của thời Đông Tấn có rất nhiều. Nổi bật là các Ngài Phật Đồ Trừng (Buddhasimha), Đạo An, Cưu Ma La Thập (Kumarajiva), Đạo Sinh, Tăng Triệu, Tăng Duệ, Đạo Dong... của các nước Ngũ hồ ở phía Bắc Trung Quốc. Phật giáo nhà Đông Tấn ở phương Nam có các Ngài Tuệ Viễn, Giới Hiền, Phật Đà Ba La (Buddhabhadra)... Về tổng quan, Phật giáo Trung Quốc thời đại này có các sự kiện nổi bật là:

Phong trào "nhập Trúc cầu pháp"

Theo bước chân của Ngài Chu Sĩ Hành của thời Tam quốc sang Tây Vức học đạo, phong trào du học trong thời đại này đã phát triển khá mạnh với các vị nổi tiếng như Ngài Pháp Hiển, Ngài Trí Nghiêm, Ngài Bảo Vân. Nhưng đáng kể nhất vẫn là Ngài Pháp Hiển. Ngoài những kinh sách phiên dịch, tác phẩm Phật quốc ký (còn gọi là Cao Tăng Pháp Hiển truyện) là bộ sách tư liệu Phật giáo sử đầu tiên của Phật giáo Trung Quốc.

Giáo đoàn của Phật giáo Trung Quốc hình thành

Kể từ Ngài Chu Sĩ Hành, vị Tăng sĩ thọ giới đầu tiên của Phật giáo Trung Quốc, đến thời Đông Tấn, số lượng Tăng sĩ đã phát triển rất nhanh và theo sau đó là sự gia Tăng số lượng chùa cảnh. Đã có 1.768 ngôi chùa lớn với 23.000 Tăng Ni trong thời kỳ này. Các tổ chức Tăng đoàn do vậy cũng nhanh chóng được thành lập. Giáo đoàn Phật giáo Trung Quốc được hình thành đầu tiên là tổ chức giáo đoàn của Ngài Phật Đồ Trừng và sau đó là của các Ngài Thích Đạo An, Ngài La Thập ở phía Bắc Trung Quốc. Về phương Nam có tổ chức giáo đoàn "Bạch Liên xã" của Ngài Tuệ Viễn. Các chức vụ Tăng như Tăng chính, Tăng lục,... cũng bắt đầu có trong thời kỳ này.

Phiên dịch bốn bộ kinh điển trọng yếu và sự phát huy của giáo lý Đại thừa, nền tảng cho sự thành lập các tông phái.

Có thể nói Phật giáo Trung Quốc là nơi triển khai mạnh mẽ tư tưởng Đại thừa Phật giáo. Các kinh luận thuộc hệ thống Đại thừa Phật giáo được phiên dịch và trở thành những bộ sách căn bản cho giới học Phật nghiên cứu. Trong thời Phật giáo Đông Tấn (kể cả 16 nước thuộc Ngũ hồ ở phương Bắc Trung Quốc), có 4 bộ kinh quan trọng được phiên dịch là kinh Bát Nhã (bao gồm đại phẩm Bát Nhã và tiểu phẩm Bát Nhã) và kinh Pháp Hoa do Ngài La Thập dịch, kinh Đại Bát Niết Bàn do Ngài Đàm Vô Sấm dịch, kinh Hoa Nghiêm do Ngài Giác Hiền dịch. Các bộ luận liên quan đến Bát Nhã được dịch trong thời kỳ này là Đại Trí Độ luận, Trung luận, Thập Nhị Môn luận đều do Ngài La Thập dịch. Các kinh luận nêu trên cùng với một số kinh luận Đại thừa khác, sau khi phiên dịch đã là các tác phẩm y cứ cho tư tưởng Đại thừa và ảnh hưởng mạnh mẽ đến giáo nghĩa của các tông phái Phật giáo Trung Quốc các thời kỳ sau.

 Phật giáo Trung Quốc trong thời kỳ Nam, Bắc triều (420 - 588 TL)(5) tuy chịu nhiều thăng trầm do hai lần bị "phế Phật" vào đời vua Võ Đế Bắc Ngụy và vua Võ Đế Bắc Chu, cũng như các nghịch duyên về chiến tranh, nhưng nhìn chung Phật giáo vẫn phát triển về mọi phương diện từ tư tưởng, tín ngưỡng, tổ chức giáo đoàn và các mặt văn hóa vật chất như kiến trúc, điêu khắc, hội họa...

Các bậc danh Tăng của Nam triều có các Ngài Phật Đà Thập (Buddhajìva), Cương Lương Da Xá (Kàlayàsas), Câu Na Bạt Ma (Gunavarman), Cầu Na Bạt Đà La (Gunabhadra)... của nhà Tống. Ở nước Tề có các Ngài Tăng Tuệ, Huyền Xướng, Tăng Già Bạt Đa La (Sanghabhadra)... Đến đời Lương, vua Lương Võ Đế rất thâm tín Phật giáo. Do vậy, Phật giáo ở Nam triều thịnh phát nhất trong giai đoạn này. Các bậc danh Tăng trong và ngoài nước có rất nhiều như Trí Tạng, Pháp Vân và Tăng Mân đều là những bậc cao Tăng người Trung Quốc; Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma), Tăng Già Bà La (Sanghapàla), Ba La Mật Đa (Paramàntha) tức Ngài Chân Đế. Điểm đặc biệt là trong thời nhà Lương, nhiều bộ luận Phật giáo quan trọng cũng được dịch, giảng, và không khí nghiên cứu học thuật ấy còn được kéo dài cho đến Phật giáo đời Trần.

 Phật giáo ở Bắc triều khá phát triển trong quảng đại quần chúng. Do ảnh hưởng của hai pháp nạn dưới thời vua Thái Võ Đế nước Bắc Ngụy (466 TL) và sau đó hơn 100 năm là của vua Võ Đế nước Bắc Chu (560 TL), nên sự phát triển của Phật giáo không có tính ổn định như Phật giáo Nam triều. Tuy vậy, không khí sinh hoạt của Phật giáo không vì thế mà bị tắc trệ. Hàng ngàn bậc danh Tăng từ Tây Vức và Ấn Độ vẫn đến Trung Quốc. Nhiều bộ kinh, luận được phiên dịch từ thời Đông Tấn hoặc trong đương đại đã trở thành kim chỉ nam lập tông cho các tông phái Phật giáo như Niết Bàn tông lấy giáo nghĩa kinh Niết Bàn làm chỗ y cứ, Thành Thật tông theo bộ luận Thành Thật để lập tông. Các tông phái Phật giáo khác cũng theo khuynh hướng trên mà thành lập như Tỳ Đàm tông, Tam Luận tông, Tịnh Độ tông, Địa Luận tông, Thiền tông,...

Như vậy, có thể nói không khí nghiên cứu học thuật của Phật giáo dưới thời Nam, Bắc triều đã được nâng lên ở mức độ cao hơn và cũng phức tạp hơn. Đặc biệt là sự xuất hiện của Thiền tông do Sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma với tuyên ngôn "bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền" (không dựa vào văn tự, chỉ truyền riêng ngoài giáo) thành lập. Điều này dường như phản ánh thái độ cách mạng tư tưởng của Phật giáo giai đoạn này. Bởi lẽ, khi nghiên cứu học thuật trong Phật giáo một khi đã trở thành lối mòn trí thức, gây nhiều tranh cãi luận lý, thiếu hẳn hơi thở của sự chứng nghiệm thì sự ra đời của tinh thần chú trọng vào thực nghiệm tâm linh của Thiền tông hẳn là hết sức cần thiết.

 Phật giáo Trung Quốc thời Đông Tấn và Nam, Bắc triều đã phát triển khá mạnh về mặt nghiên cứu học thuật, thành lập tông phái và đặt nền tảng cho sự thăng hoa của Phật giáo trong các thời đại sau. Đến thời Tùy Đường, sự ổn định trong cơ cấu kinh tế văn hóa xã hội đã tạo điều kiện cho Phật giáo thực hiện những công trình Phật sự quan trọng.

c/ Thời đại kiến thiết

Cuối thời Nam, Bắc triều, Phật giáo do ảnh hưởng của nạn "phế Phật" nên suy yếu trầm trọng. Bước sang đời nhà Tùy, được sự ủng hộ của các vị minh quân Tùy Văn Đế và Tùy Dạng Đế nên được phục hưng nhanh chóng. Sách Lịch sử Phật giáo Trung Quốc viết: "Ngay sau khi tức vị, vua (Văn Đế) hạ chiếu dựng chùa ở các danh sơn thuộc Ngũ Nhạc, và dựng một chùa công cộng lớn ở mỗi châu, gồm có 45 châu, đều lấy tên là "Đại Hưng Quốc", công hứa cho dân gian được tự do đi xuất gia, nên số Tăng Ni đã có tới 100.000 người" (sđd, tr.135 - 136). Sau khi Văn Đế băng hà, tiếp nối truyền thống của vua cha, Tùy Dạng Đế cũng tận lực hưng long Phật giáo. Năm Khai Hoàng thứ 11 (năm 591 TL), vua thọ giới Bồ tát với Ngài Trí Khải, tổ chức hội "Thiên Tăng trai" cúng dường cho 1.000 vị Tăng và sau đó đặt tên hiệu "Trí Giả Đại sư" cho Ngài Trí Khải. Tông Thiên Thai (Pháp Hoa tông) do vậy cũng được hoằng truyền mạnh mẽ kể từ đời vua Tùy Dạng Đế. Các học phái, tông phái có từ trước như Tam Luận tông có từ thời Đông Tấn giờ đây được cách tân thành Tân Tam Luận tông do công của Ngài Cát Tạng.

Các danh Tăng của các học phái nổi bật là các Ngài Đàm Thiên của Nhiếp Luận tông, Ngài Đàm Diên, Ngài Tuệ Viễn của Niết Bàn tông... Các công trình phiên dịch kinh tạng vẫn tiếp tục với các Ngài Na Liên Đề Xá (Nàrendrayasas), Xà La Quật Đa (Jnanagupta) và Đạt Ma Cấp Đa (Dharmagupta). Đặc biệt Phật giáo Trung Quốc đời Tùy có các công trình biên soạn để chỉnh lý những kinh điển đã phiên dịch từ trước như Chúng Kinh Mục Lục, Lịch Đại Tam Bảo Ký của các Ngài Pháp Kinh, Phi Trưởng Phòng, Ngạn Tôn đều là các tư liệu rất giá trị cho việc nghiên cứu lịch sử Phật giáo Trung Quốc.

Từ nền tảng của Phật giáo nhà Tùy, Phật giáo Trung Quốc đời Đường đã phát triển vượt bậc. Có thể nói đây là thời kỳ Phật giáo phát triển mạnh mẽ nhất trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc. Gần 300 năm (618 907 TL), Phật giáo được các đế vương bảo hộ nên nhiều bậc cao Tăng thạc đức cũng xuất hiện tổ chức các tông phái Phật giáo mang tính quy củ ảnh hưởng không những trong đương đại mà còn đến tận các thời kỳ sau; không những trong phạm vi Trung Quốc mà còn quảng bá đến các nước khác như Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam... Đó là Tịnh Độ tông của Ngài Đạo Xước, Thiện Đạo; Nam Sơn Luật tông của Ngài Đạo Tuyên; Pháp Tướng tông của Ngài Huyền Trang và Từ Ân; Hoa Nghiêm tông của Ngài Pháp Tạng; Thiền tông của Ngài Thần Tú và Huệ Năng; Mật giáo của Ngài Thiện Vô Úy, Kim Cương Trí và Bất Không. Sự nghiệp phiên dịch kinh điển và các tác phẩm trước tác của Ngài Huyền Trang đã vượt quá khuôn khổ Phật giáo trở thành một công trình văn hóa lịch sử của toàn nhân loại. Tác phẩm Đại Đường Tây Vức ký (Tây du ký) của Ngài là nguồn tư liệu vô giá cho khoa văn bản học, văn hiến học... và các ngành khoa học lịch sử hiện nay. Có thể nói Phật giáo Trung Quốc kể từ đời Đường đã thoát ra khỏi các tư tưởng Phật giáo từ thời đại Đông Tấn và Nam, Bắc triều và phát triển thành một hệ tư tưởng mới mà về sau các Ngài Nghĩa Tịnh, Bát Nhã, Thiện Vô Úy... kế thừa. Tuy nhiên, cuối đời Đường, do chịu pháp nạn Võ Tôn phế Phật (năm 842 TL) nên Phật giáo đã kém phát triển, không còn rực rỡ như các giai đoạn lịch sử Phật giáo sơ Đường và thịnh Đường trước đó.

d/ Thời đại kế thừa

Sau thời kỳ Phật giáo toàn thịnh của đời Đường, Phật giáo ở các thời Ngũ đại (gồm Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu), Tống, Liêu Kim, Nguyên, Minh vẫn phát triển nhưng không được rực rỡ như trước. Chủ yếu tư tưởng của Phật giáo các thời đại lịch sử nêu trên là kế thừa các thành tựu của Phật giáo đời Đường. Lần thứ tư trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc, Phật giáo lại gặp pháp nạn "phế Phật" vào đời Hậu Chu theo lệnh của vua Thế Tôn Anh Mại (năm 955 TL). Ngoài ra, xu hướng thoái hóa trong tổ chức giáo đoàn phần nào cũng tác động khiến Phật giáo thời đại này hầu như không tạo ra các giai đoạn thăng hoa tư tưởng nào như Phật giáo đời Đường. Tuy nhiên, có thể nói Phật giáo từ Ngũ đại đến đời Minh vẫn kế thừa được tư tưởng cơ bản của Phật giáo thịnh Đường. Phật giáo trong thời đại này có các sự kiện nổi bật như sau:

Sau suốt 200 năm gián đoạn, kể từ đời vua Đức Tôn cuối nhà Đường, công tác phiên dịch kinh điển đến đời Tống lại được phục hưng. Dưới các triều đại Bắc Tống và sau đó là Nam Tống, Phật giáo đã tiến hành công trình khắc in Đại tạng kinh Phật giáo. Trong suốt đời Tống, tổng cộng có 5 lần khắc ván ấn hành Đại tạng kinh. Bản Đại tạng kinh (thục bản) khắc vào năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 8 (năm 983 TL) là bộ Đại tạng kinh lịch sử đầu tiên của Phật giáo Trung Quốc.

Về sinh hoạt của các tông phái Phật giáo thì trong các tông phái Phật giáo có từ trước, chỉ Thiền tông vẫn duy trì và phát triển qua các thời kỳ lịch sử. Các tông phái còn lại vẫn hiện diện nhưng không đạt đến tầm vóc quốc tế như Thiền tông. Đến đời Nguyên, Minh, Lạt Ma giáo của Mật tông Tây Tạng trở thành tông phái chính và có ảnh hưởng khá mạnh trong xã hội. Vào đời nhà Minh, Đại tạng kinh Tây Tạng cũng truyền vào và được chuyển ngữ sang chữ Hán. Tuy nhiên, chính do khuynh hướng quá chú trọng các hình thức lễ nghi và biểu tượng hư ảo cộng thêm sự thoái hóa trong tổ chức giáo đoàn đã khiến Phật giáo thời đại Nguyên, Minh dần dần thu hẹp sự phát triển và khởi đầu cho thời đại suy vi của Phật giáo trong các giai đoạn sau.

e/ Thời đại suy vi và công cuộc chấn hưng Phật giáo của Thái Hư Đại sư

Trong 12 đời vua nhà Thanh từ Thế Tổ Hoàng đến đời vua cuối cùng là vua Tuyên Thống, suốt gần 250 năm (1622 - 1911 TL), Phật giáo vẫn được xem như tôn giáo chính thống. Trong các đời vua Thế Tổ Thuận Trị, Thánh Tổ Khang Hy, Thế Tôn Ung Chính và Cao Tôn Càn Long, tông phái Phật giáo được chú trọng đặc biệt là Lạt Ma giáo (Mật tông). Thiền tông và Tịnh Độ tông là hai tông phái còn có ảnh hưởng trong quần chúng. Phật giáo dưới thời bốn vị vua trên đã có một số công trình Phật sự quan trọng mà nổi bật nhất là công tác ấn hành và xuất bản Đại tạng kinh. Vào đời Thanh có ba bản Đại tạng kinh được khắc in là Tục tạng kinh vào đời vua Khang Hy, Long tạng bản khắc in kéo dài trong hai đời vua Thế Tôn Ung Chính và Cao Tôn Càn Long; Mãn Châu văn Đại tạng kinh là bản Đại tạng kinh Hán được chuyển ngữ sang chữ Mãn Châu, cũng hoàn thành trong thời vua Càn Long. Trong ba bản Đại tạng kinh trên, hai bộ đầu được xem là có nhiều giá trị nghiên cứu.

Tình hình giáo đoàn Phật giáo dưới thời nhà Thanh tuy đông đảo về số lượng tự viện và Tăng Ni, nhưng về thực chất, tổ chức giáo đoàn khá lỏng lẻo, việc độ người xuất gia tùy tiện khiến cho Phật giáo rơi vào tình hình "có lượng mà không chất". Sách Lịch sử Phật giáo Trung Quốc viết: "Riêng về giáo học của Phật giáo thì không có gì phát triển mới lạ, chỉ là duy trì các học thuyết của tiền nhân. Trong giới Phật giáo lại không có nhân tài xuất hiện, Tăng Ni không có chí hoằng pháp. Hơn nữa, lại bị tai nạn phá hủy của loạn "Thái Bình thiên quốc" nên Phật giáo ở đời nhà Thanh đã bước xuống dốc suy vi"(6).

Sau loạn Thái Bình thiên quốc, ngày 25/12/1911, Cách mạng Tân Hợi thành công đã mở ra một thời đại mới cho nhân dân Trung Quốc, Phật giáo cũng theo đó mà có cơ hội phục hưng. Ngay từ năm 1912, Hiệp hội Trung Quốc Phật giáo Tổng hội được thành lập tại Thượng Hải; năm 1913, Trung ương Phật giáo Công hội cũng ra đời tại Bắc Kinh. Tuy nhiên, mãi đến năm 1924, sự nghiệp vận động hộ pháp mới bắt đầu phát triển mạnh mẽ do công lao của các Ngài Thái Hư, Ấn Quang, Đế Nhàn, Đạo Giai, Viên Anh, Nhân Sơn, Vương Nhất Đình, Đại Bi... Đến tháng 08/1931, Phật giáo mới chính thức được sự bảo hộ của Chính phủ. Kể từ đó, Phật giáo Trung Quốc nhanh chóng được phục hưng về mọi phương diện, từ tổ chức giáo đoàn, tông phái đến các công trình Phật sự kiến thiết, trùng tu danh lam, văn hóa học thuật, xuất bản Đại tạng kinh... Công cuộc vận động phục hưng Phật giáo Trung Quốc không những thành công trong nước mà còn ảnh hưởng sâu rộng đến Phật giáo trên thế giới. Phật giáo Việt Nam cũng do đó mà thành lập nhiều tổ chức hội đoàn Phật giáo Phật học trên cả ba miền Bắc, Trung, Nam.

* Kết luận

Lịch sử Phật giáo Trung Quốc trên phương diện lịch đại đã trải qua nhiều thăng trầm biến đổi. Như lớp sóng sau phủ lên lớp sóng trước, các giai đoạn Phật giáo đi sau luôn kế thừa, phát huy những thành tựu của các giai đoạn Phật giáo trước đó tuy mức độ đậm nhạt có khác nhau. Có thể nói Phật giáo Trung Quốc từ thời đại phiên dịch đến thời đại kiến thiết đã từng bước đạt đến đỉnh cao mà thời kỳ rực rỡ nhất là triều đại nhà Đường. Từ thời đại kế thừa trở về sau, Phật giáo Trung Quốc cũng đã duy trì được các thành tựu Phật giáo trong các thời kỳ trước đó. Tuy nhiên, đến đời Thanh, ngoài công trình Phật sự đáng chú ý nhất là công tác in ấn xuất bản Đại tạng kinh, sự vắng mặt của các bậc cao Tăng khiến cho công tác quản lý và công tác tổ chức Tăng đoàn lỏng lẻo. Phật giáo Trung Quốc thời kỳ này dường như đánh mất vị trí trong lòng người dân. Sự suy vi của Phật giáo do vậy là điều không tránh khỏi. Các phong trào chấn hưng trong những thập niên đầu thế kỷ XX của Thái Hư Đại sư đã đem lại cho Phật giáo Trung Quốc luồng sinh khí mới. Từ đó đến nay, theo khuynh hướng ấy, Phật giáo Trung Quốc đã được phát triển nhanh chóng và trở thành một tôn giáo có tầm ảnh hưởng rất quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân dân Trung Quốc.

* Chú thích

(1) Theo ý kiến của các học giả nghiên cứu sử Phật giáo Việt Nam hiện nay, Phật giáo đã du nhập vào trung tâm Luy Lâu Giao Chỉ (Việt Nam hiện nay) rất lâu trước khi truyền sang trung tâm Bành Thành và sau đó là trung tâm Lạc Dương của nhà Hán.

(2) Thích Thanh Kiểm, Lịch sử Phật giáo Trung Quốc, TP HCM, 1991, tr.6 - 7.

(3) Xem Lục Độ Tập Kinh và Lịch Sử Khởi Nguyên Dân Tộc Ta, Lê Mạnh Thát, 1972.

(4) Lịch sử Phật..., sđd, tr.47.

(5) Nam triều gồm các nước Tống (420), Tề (479), Lương (502), Trần Tùy (589). Bắc triều có các nước Bắc Ngụy (439), sau chia thành Đông Ngụy (534) và Tây Ngụy (535). Kế tiếp triều Đông Ngụy là Bắc Tề (550), kế tiếp triều Tây Ngụy là Bắc chu (536). Về sau, Bắc Chu thôn tính Bắc Tề nhưng cuối cùng bị nhà Tùy diệt vong.

(6) Lịch sử Phật..., sđd, tr.271.

Sách đọc thêm

1. Lịch sử Phật giáo Trung Quốc, tác giả Thích Thanh Kiểm, Thành hội Phật giáo TP HCM xuất bản, 1991.

2. Lịch sử Phật giáo thế giới, tập I (nguyên tác: Thế giới Phật giáo thông sử, tác giả Thích Thánh Nghiêm, Việt dịch: Trung tâm Tư liệu Phật học Phân viện Nghiên cứu Phật học Hà Nội), Nxb Hà Nội, 1995 (xem Chương VII, từ tr.450 đến tr.461