Tháng 12 năm 1990, ở địa phận xã Cẩm Thịnh, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh đã khai quật được một quả chuông đồng. Chuông cao 0,95m, đường kính miệng chuông 0,6m, cân nặng 200kg, không ghi niên đại.
Quả chuông này đã được Nguyễn Du Chi giới thiệu trên Những phát hiện mới khảo cổ học năm 1995(1). Người giới thiệu đã căn cứ vào những đặc điểm về hình thức và nội dung bia, đoán định đó là “cổ vật” đời Trần.
VỀ BÀI THƠ KHẮC TRÊN CHUÔNG XÃ CẨM THỊNH, HUYỆN CẨM XUYÊN
HOÀNG VĂN LÂU
Viện Nghiên cứu Hán - Nôm
Tháng 12 năm 1990, ở địa phận xã Cẩm Thịnh, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh đã khai quật được một quả chuông đồng. Chuông cao 0,95m, đường kính miệng chuông 0,6m, cân nặng 200kg, không ghi niên đại.
Quả chuông này đã được Nguyễn Du Chi giới thiệu trên Những phát hiện mới khảo cổ học năm 1995(1). Người giới thiệu đã căn cứ vào những đặc điểm về hình thức và nội dung bia, đoán định đó là “cổ vật” đời Trần.
- Về hình thức: Núm treo chuông do một con rồng tạo thành. Cả 6 núm chuông đều thể hiện phong cách chuông chùa thời Trần.
- Trên chuông khắc bài thơ thất ngôn tứ tuyệt của Phạm Sư Mạnh giữ chức Nhập nội hành khiển, Tri Khu mật việ sự triều Trần, còn giữ được hai chữ huý đời Trần là chữ “Nam” và chữ “Lý” theo lối bớt nét.
Phạm Sư Mạnh có tập thơ Hiệp Thạch thi tập, nhưng đã bị thất truyền. Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn sưu tập được 35 bài thơ của họ Phạm, nhưng không có bài thơ tứ tuyệt này. Vì lẽ đó, chúng tôi thấy cần thiết phải tìm hiểu hơn bối cảnh sáng tác, xác định niên đại sáng tác của bài thơ, góp thêm tư liệu cho những ai muốn tìm hiểu thơ Phạm Sư Mạnh nói riêng và những tác gải thời Trần nói chung.
Nguyên văn bài thơ như sau:
Phiên âm:
Kình đào hung dũng bạch vân gian
Thiều thiều vạn lý nam chinh lộ
Xa giá hoang châu Bố Chính san.
Hiệp Thạch Phạm Sư Mạnh
Cung nội thượng ban Phùng ngọc
Pháp hiệu Từ Nghiêm(2)
Dịch nghĩa:
Nhìn về phương
Sóng Kình cuồn cuộn liền giải mây trắng.
Đường nam chinh xa xôi muôn dặm,
Xa giá tới núi Bố Chính châu hoang vắng.
Bài thơ phản ánh một sự kiện lịch sử. Hoàng đế Đại Việt (xa giá) thân hành đi đánh phương
Theo Từ điển văn học, Phạm Sư Mạnh vào triều làm quan năm Đại Khánh 10 (1323)(3). Theo Lược truyện các tác gia Việt Nam, Phạm Sư Mạnh “được bổ làm quan trong triều” năm Đại Khánh 10 (1323)(4). Như thế, sự kiện Phạm Sư Mạnh được theo xa giá đi
Từ năm 1323 đến trước năm 1253 (Thiệu Phong 18), chỉ có một lần hoàng đế Minh Tông “thân chinh” vào năm 1334 – 1335, nhưng chỉ tiến quân tới Nghệ An để chinh phạt Ai Lao xâm lấn đất đai(5).
Từ năm 1353 về sau, mới có mối lo về Chiêm Thành: Tháng 10 năm 1353, Chiêm Thành vào cướp Hóa Châu. Các năm 1365, 1371, 1376 đều có chuyện biên giới phương
“…Bấy giờ, đại quân tiến đến cửa biển Di Luân, các quân đi theo đường biển. Vua cưỡi ngựa, dẫn quân bộ ven theo bờ biển đến cửa Nhật Lệ, đóng quân luyện tập một tháng”(6).
Hai cửa Di Luân và Nhật Lệ đều ở châu Bố Chính (nay là tỉnh Quảng Bình). Câu thơ: “Xa giá hoang châu Bố Chính san” có thể chỉ sự kiện Duệ Tông thân chinh năm này (1376) và bài thơ khắc trên chuông ở xã Cẩm Xuyên đã được sáng tác vào thời gian đó (1376-1377).
Năm Ất Hợi, niên hiệu Khai Hựu 7, vào tháng 12 nhuận, Minh Tông chinh phạt Ai Lao, sai Nguyễn Trung Ngạn mài vách núi khắc chữ ghi công(7). Lần xuất chinh này, Đốc tướng Đoàn Nhữ Hài tử trận, nhưng đại quân thắng lợi khải hoàn.
Còn lần
Phạm Sư Mạnh làm bài thơ “
Chú thích:
(1) X. Nguyễn Du Chi: “Thêm một vài tư liệu về chuông thời Trần ở chùa Rối (Hà Tĩnh): Những phát hiện mới khảo cổ học, 1995.
(2) Theo văn bản hiệu đính bằng chữ Hán của PTS. Đinh Khắc Thuân.
(3) Từ điển văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1984, Tập I, tr. 188.
(4) Lược truyện các tác gia Việt
(5) Đại Việt sử ký toàn thư, Bản…, g.7, tờ 6b, 7a.
(6) Sđd, Bản…, g.7, tờ 43a, 43b.
(7) Sđd, Bản…, g.7, tờ 6a.
Thông báo Hán Nôm học 1998 (tr.256-259)