Tranh Chăn Trâu
Thích Thanh Từ dịch và giảng
Mục Lục
Tựa.
Tranh
Thiền Tông.
Tranh
Thiền Tông Số 1: Tìm Trâu.
Tranh
Thiền Tông Số 2.
Tranh
Thiền Tông Số 3: Thấy Trâu.
Tranh
Thiền Tông Số 4: Được Trâu.
Tranh
Thiền Tông Số 5: Chăn Trâu.
Tranh
Thiền Tông Số 6: Cởi Trâu Về Nhà.
Tranh
Thiền Tông Số 7: Quên Trâu Còn Người.
Tranh
Thiền Tông Số 8: Người Trâu Đều Quên.
Tranh
Thiền Tông Số 9: Trở Về Nguồn Cội.
Tranh
Thiền Tông Số 10: Thõng Tay Vào Chợ.
Tựa
Tranh
chăn trâu, hiện có ở các chùa thuộc hệ Bắc Tông thường có treo. Song, đa số
người tu nhìn thấy mà không biết ý nghĩa tượng trưng qua tranh như thế nào. Vậy
chúng ta nên tìm hiểu cho thấu đáo.
Đây
là bài tựa của Trúc Thiên nói về xuất xứ của mười mục chăn trâu, tương đối khá
đầy đủ.
Mục
Ngưu Đồ là Tranh chăn trâu. Tranh ra đời từ triều đại nào, dưới ngọn bút lông
nào, khó mà tra cứu cho đích xác được. Điều chắc chắn là tranh có từ xa xưa
lắm, ban đầu chỉ có sáu bức, sau thất lạc luôn. Mãi đến đời Tống, thế kỷ thứ
12, nhiều bộ tranh mới bắt đầu xuất hiện từ các Tòng lâm, Thiền Viện, phản ảnh
nhiều khuynh hướng khác nhau trong sự tu tập. Như vậy là không chỉ có một bộ mà
có nhiều bộ Mục Ngưu Đồ khác nhau, tất cả đều đượm nhuần tinh thần Phật giáo
Bắc Tông. Trong số ấy hiện nay được truyền tụng nhất là tranh của hai họa sĩ áo
nâu Thanh Cư và Quách Am.
Tuy
có nhiều bộ tranh, nhưng bộ nào cũng như bộ nào, đều có mười bức, mỗi bức có
một bài tụng bằng thơ tứ tuyệt, và một bài chú giải bằng văn xuôi. Đó là về
phần hình thức. Còn về tinh thần thì tranh tuy có nhiều, nhưng có thể xếp thành
hai loại: Loại tranh theo khuynh hướng Đại Thừa và loại tranh theo khuynh hướng
Thiền Tông. Trong hai loại, tranh vẽ sai khác nhau hết nhưng bài tụng và bài
chú riêng cho mỗi loại vẫn không thay đổi.
Tranh Thiền Tông
Tựa
của Quách Am
Chơn nguyên của chư Phật chúng sanh cũng sằn có,
nhưng nhơn mê mà trầm luân tam giới, nhơn ngộ mà chóng thoát sanh tử. Do đó, có
Phật để thành, có chúng sanh để tạo.
Thế nên các bậc Tiên Hiền rộng nói các đường. Lý có
thiên viên, giáo chia đốn tiệm. Từ thô đến tế, từ cạn đến sâu, rốt sau chỉ
trong chớp mắt, Ngài Ca Diếp thấy hoa miệng cười chúm chím. Từ đây Chánh Pháp
Nhãn Tạng được lưu thông trên Trời, cõi người, nơi này chốn khác. Người đạt lý
thì siêu Tông việt cách, như đường chim không để dấu vết. Người nhận nơi sự thì
kẹt câu như rùa linh lê đuôi.
Khoảng này có Thiền Sư Thanh Cư xem nơi căn cơ
chúng sanh hợp bịnh cho thuốc, làm bản đồ mười mục chăn trâu theo cơ nói giáo.
Ban đầu đen dần dần trắng nói lên sức mạnh chưa đủ. Kế đến thuần chơn tiêu biểu
căn cơ từ từ soi sáng. Sau rốt người trâu chẳng thấy, tượng trưng tâm pháp cả
hai đều hết, lý ấy đã tột cội nguồn, Pháp kia vẫn còn che đậy, khiến kẻ căn cơ
bậc trung hạ nghi ngờ phân vân, rơi vào không ngơ hoặc kẹt vào thường kiến.
Nay Thiền Sư Tắc Công nghĩ đến mô phạm của bậc Tiên
Hiền, phát xuất từ đáy lòng mình làm những bài tụng hay, khiến ánh sáng xen
nhau, ban đầu từ chỗ mất trâu rốt đến hoàn nguyên, khéo ứng hợp quần cơ như cứu
người đói khát.
Rồi Từ Viễn nương đây sưu tầm diệu nghĩa, lượm lặt
chỗ huyền vi, như con thủy mẫu muốn đi ăn phải nương con tôm làm mắt dẫn đường.
Ban đầu từ tìm trâu, đến rốt sau buông thõng tay vào chợ.
Đó là gắng làm dậy sóng ngang sanh đầu sừng, còn
không tâm có thể tìm nào có trâu để có thể kiếm, đến buông tay vào chợ ma muội
làm sao; huống là cha ông chẳng rõ, họa đến cháu con, chẳng ngại hoang đường
thử làm đề xướng.
Giảng Giải
Hòa
thượng Quách Am có nói: Nguồn chơn của chư Phật, chúng sanh ai ai cũng có sẵn,
Phật có nguồn chơn ấy, chúng sanh cũng có nguồn chơn ấy. Vì chúng sanh quên
(mê) nguồn chơn nên trầm luân trong tam giới. Nếu ngộ, nhận được nguồn chơn sẵn
có nơi mình thì chóng thoát sanh tử. Do đó, mới có Chư Phật nhận được nguồn
chơn mà thành Phật và chúng sanh còn tạo nghiệp nên đi trong tam giới.
Bởi
vậy các bậc tiền hiền thương xót chúng sanh mới rộng nói các phương tiện. Những
phương tiện đó, lý thì có thiên lệch hay tròn đủ, giáo thì có chia ra đốn tiệm,
để khiến cho chúng sanh tu từ thô lần đến tế, từ cạn tới sâu. Chủ yếu rốt sau
là chỗ: "Đức Phật ở trong hội Linh Sơn đưa cành hoa lên, trong chớp mắt,
Ngài Ca Diếp thấy hoa sen cười chúm chím". Chính vì ngài Ca Diếp cười chúm
chím nên Đức Phật mới nói: "Ta có Chánh Pháp Nhãn Tạng Niết Bàn Diệu Tâm,
Pháp môn mầu nhiệm, chẳng lập văn tự, ngoài giáo lý truyền riêng, nay giao phó
cho ngươi, ngươi khéo gìn giữ Chánh Pháp này, truyền trao mãi đừng cho dứt, đến
sau sẽ truyền cho A Nan". Bởi sự truyền trao ấy nên ngài Quách Am nói:
"Kể từ đó Thiền mới được lưu thông, truyền đi từ nơi này đến nơi khác, từ
cõi người đến cõi Trời. Người đạt lý Thiền thì siêu vượt cả hình thức tôn giáo,
vượt cả tư cách thông thường của con người, giống như chim bay trong hư không,
qua rồi không để lại dấu vết. Còn người chấp sự thì kẹt câu lầm lời, như rùa bò
kéo lê cái đuôi. Ví dụ có người hỏi Tổ Lâm Tế: "Thế nào là Phật?"
Ngài đáp: "Cục cứt khô". Qua lời đáp này, đối với người thông thì
biết Tổ dùng lời để phá chấp danh từ ngôn ngữ của người mê, nên không kẹt.
Nhưng đối với người không thông thì chấp lời văn, cho rằng Tổ thô lỗ, bất kính
Phật. Cũng giống như rùa bò ở chỗ đất sình đuôi nó kéo lết dưới đất, đi tới đâu
cũng kéo một lằn, không thoát khỏi dấu vết.
Lúc
bấy giờ, Thiền sư Thanh Cư xem căn cơ của chúng sanh mới tùy theo bệnh mà cho
thuốc, Ngài vẽ ra tranh chăn trâu, ban đầu là trâu đen rồi trắng dần dần để nói
lên sức huân tu còn yếu chưa mạnh. Kế đến trâu trắng đã thuần chơn là tiêu biểu
cho căn cơ từ từ đã soi sáng. Và sau rốt chỉ là: "Một vòng trắng"
tượng trưng cho tâm và pháp cả hai đều hết, pháp là dụ cho trâu, tâm là dụ người
chăn. Trâu và chăn không còn nữa, đó là tột chỗ cội nguồn rồi. Nhưng mà, còn
cái che đậy là thấy chỗ không còn người, không còn trâu, thì người đời sẽ dặt
câu hỏi: "Tu đến chỗ rốt ráo không còn gì hết, rơi vào không ngơ sao? Hoặc
mãi mãi là không thì rơi vào thường kiến? Ngài Thanh Cư chỉ vẽ tới "Vòng
Tròn Trắng" không còn trâu, không còn người chăn. Các bậc Hiền Trí sợ hàng
hạ căn, trung căn sanh nghi ngờ nên Thiền Sư Tắc Công họa mục chín là:
"Phản bổn hoàn nguyên", tranh vẽ lá rụng về cội, chim bay về tổ và
làm tụng. "Phản bổn hoàn nguyên" là trở về nguồn cội sẵn có của mình,
nói lên ý nghĩa người tu đã vào được cảnh giới của Phật, để giải nghi cho
người.
Sau,
ngài Từ Viễn diễn đạt thấu suốt được lý Thiền: Người tu Thiền là người sẵn sàng
lao mình để cứu độ chúng sanh, chớ không phải vào cảnh giới Phật để an nghỉ,
nên đã họa ra mục thứ mười là "Buông thõng tay vào chợ" để tiêu biểu
công hạnh giáo hóa chúng sanh của người viên mãn.
Tranh
chăn trâu từ mục thứ nhứt "Tìm trâu" tới mục thứ tám "Không còn
trâu, không còn người chăn" là do Thiền sư Thanh Cư họa. Kế đó, ngài Tắc
Công họa thêm mục thứ chín "Phản bổn hoàn nguyên" và làm tụng. Sau
cùng, ngài Từ Viễn họa tiếp mục thú mười "Buông thõng tay vào chợ".
Ngài
Quách Am bình: Chỗ rốt ráo không hình tuớng vốn thanh tịnh sẵn vậy, mà gắng tạo
ra hình tướng, đó làm cho dậy sóng. Tâm vốn thanh tịnh bỗng dưng vẽ ra hình
tướng, giống như đầu sừng mọc ra không manh mối, làm sao có thể tìm được, huống
nữa là có trâu để tìm kiếm? Cho tới "Buông thõng tay vào chợ", đó là
việc làm rất ma muội, gạt người.
Ngài
nói họa ra hình tướng con trâu, thằng chăn, là việc làm ma muội gạt người.
Nhưng ngài lại khen các bậc tiền bối, vì quá từ bi tạo ra phương tiện, để cho
người sau dễ thấy thứ tự mà tu hành. Song người sau không hiểu, nhơn đó mà chấp
hình tướng, nên nói: "Ông cha không rõ họa đến cháu con". Ngài nói
họa ra tranh ảnh là chuyện hoang đường, nhưng ngài không ngại nên làm đề xướng.
Trong nhà Thiền thường dùng câu: "Ông cha chẳng rõ họa đến cháu con"
để khen ngợi Tổ Bồ Đề Đạt Ma. Vì ngài đã đem tâm tư, sức lực để làm lợi cho
chúng sanh. Ngài dám liều chết vượt biển cả, đi từ Ấn Độ sang Trung Hoa để
truyền Thiền cho tổ Huệ Khả, lần đến Lục Tổ Huệ Năng... Ngài là người từ bi đáo
để, vì đạo vì chúng sanh, không ngại gian khổ hiểm nguy, đây nói là "Ông
cha không rõ", khen Tổ mà nói như thế đó! Nhờ ngài truyền Thiền nên bây
giờ chúng ta mới biết để tu mà nói: "Họa đến cháu con". Đó là ngôn
ngữ đặc biệt của nhà Thiền, nếu nghe mà chấp thì không hiểu gì hết.
Tranh Thiền Tông Số 1: Tìm Trâu
Dẫn
Từ
lâu chẳng mất đâu cần kiếm tìm. Do trái tánh giác trở thành xa cách. Bởi theo
vọng trần bèn thành khuất lấp. Quê nhà dần xa lối tẻ chợt lầm. Được mất dấy lên
phải quấy đua khởi.
Giảng Giải
Từ
lâu chẳng mất đâu cần kiếm tìm: Con trâu tượng trưng cho Tánh Giác sẵn có nơi
mỗi người, lúc nào cũng hiển lộ nơi sáu căn, đâu có mất, thì cần gì kiếm tìm.
Do
trái tánh giác trở thành xa cách: Học Kinh luận thấy Phật nói mỗi chúng sanh có
sẵn Tánh Giác, nên muốn tìm, nhưng không biết nó ở đâu mà tìm. Sở dĩ không biết
là vì sống chạy theo bên ngoài, trái với Tánh Giác, nên thành xa cách.
Bởi
theo vọng trần bèn thành khuất lấp: Hằng ngày chúng ta sống, sáu căn tiếp xúc
với sáu trần, chạy theo trần cảnh khởi vọng niệm phân biệt, khiến Tánh Giác bị
che mờ nên gọi là khuất lấp.
Quê
nhà dần xa lối tẻ chợt lầm: Ví như có một quê hương rất thanh bình, người người
sống hòa vui hạnh phúc bỗng dưng có người phóng đãng rời bỏ quê hương đi phiêu
lưu lang bạt nơi này nơi kia, trải qua nhiều năm, đi mãi, càng đi càng xa cách
quê hương. Bỗng một phút giây chợt thức tỉnh, họ muốn trở về quê hương, nhưng
về đường xa diệu vợi, có nhiều đường mòn, lối tẻ quanh co, họ không biết phải
đi lối nào.
Được
mất dấy lên phải quấy đua khởi: Sở dĩ có Tánh Giác mà không nhận ra được là vì khi
căn tiếp xúc với trần cảnh, tâm liền khởi phân biệt cái này đẹp, cái kia xấu.
Cái đẹp thì ưa thích tìm cách tạo sắm cho được, khi được rồi thì lo bảo quản
gìn giữ. Một thời gian cái đẹp đó mất đi thì buồn rầu khổ sở, kiếm tìm... Hoặc
khi tiếp xúc với người, ai tử tế thì cho đó là phải, ai tệ bạc thì cho đó là
quấy. Và cứ tiếp xúc là có phải, quấy, được, mất, dấy khởi không ngừng...Chúng
ta học Phật ai cũng biết mình có Chơn Tâm, nhưng không sống được với Chơn Tâm
là tại vì đối duyên xúc cảnh cứ thấy được, mất, phải, quấy, hơn, thua, tốt,
xấu... mà không thấy cái chân thật.
Tụng
Mang mang bát thảo khứ truy tầm
Thủy hoạt sơn diêu lộ cánh thâm
Lực tận thần bì vô mịch xứ
Đản văn phong thụ vãn Thiền ngâm.
Dịch
Nao nao vạch cỏ kiếm tìm trâu
Núi thẳm đường xa nước lại sâu
Kiệt sức mệt nhoài tìm chẳng thấy
Chỉ nghe véo vắt giọng ve sầu.
Giảng Giải
Chú
mục đồng lòng nao nao bồn chồn vạch cỏ bụi để tìm kiếm trâu. Chú lội qua suối
sâu, chú trèo lên núi cao, chú vượt đường dài xa thẳm. Sức chú đã kiệt, tinh
thần chú đã mỏi mệt, nhưng chú vẫn chẳng biết trâu ở đâu mà tìm. Trời chiều,
giữa cảnh rừng rậm, chú chỉ nghe trên cây tiếng ve ngâm.
Người mới tu với tất cả ý
chí dõng mãnh thiết tha, muốn tu cho thành Đạo quả, nên hết đến Đạo tràng này,
lại đến Pháp hội kia để học hỏi tìm tòi. Càng đi tìm tòi học hỏi thì càng nhọc
sức, vẫn không nắm bắt được cái mà mình muốn kiếm tìm. Nhìn lại, chỉ thấy sinh
hoạt cũ kỹ của ngày tháng qua.
Tranh Thiền Tông
Số 2 : Thấy Dấu
Dẫn
Nương Kinh để hiểu nghĩa,
xem giáo lý tìm dấu vết. Biết rõ vòng, xuyến... đều là vàng, cả thảy muôn vật
là chính mình. Chánh tà chẳng cần biện biệt, chơn ngụy đâu cần phân chia. Chưa
vào cửa này tạm gọi là thấy dấu.
Giảng Giải
Nương
Kinh để hiểu nghĩa, xem giáo lý tìm dấu vết: Người tu nhờ xem Kinh học giáo lý,
mà biết mình sẵn có Tánh Giác; chỉ biết xuông, tin suông chứ tự mình chưa tận
mặt nhận ra. Biết rõ vòng, xuyến...đều là vàng, cả thảy muôn vật là chính mình:
Tất cả đồ trang sức như vòng, xoa, xuyến, nhẫn, hoa tai...tuy hình dạng có sai
khác, nhưng thể của nó vẫn là vàng. Tâm thể tròn sáng sẵn có nơi chính mình là
nguồn cội sanh ra muôn pháp muôn vật, nên nói cả thảy muôn vật là chính mình.
Chánh tà chẳng cần biện biệt, chơn ngụy đâu cần phân chia: Tâm thể chơn thật
không hình không tướng, nên ý nghĩa lời nói không đến được. Người tu hằng sống
được với tâm thể chân thật của mình rồi, khi đối duyên xúc cảnh không cần phân
biệt đây là chánh kia là tà, không còn phân chia đây là chơn kia là ngụy. Vì
tất cả các pháp đều là dụng của tâm. Chưa vào cửa này tạm gọi là thấy dấu:
Người chưa tự nhận ra tâm thể chơn thật của mình mà nhờ lời Phật Tổ dạy trong
Kinh Luận, tin rằng mình sẵn có tâm thể ấy, nên tạm gọi là thấy dấu.
Tụng
Thủy biên lâm hạ tích thiên đa
Phương thảo ly phi kiến dã ma
Túng thị thâm sơn cánh thâm xứ
Liêu thiên tỉ khổng tạc tàng tha.
Dịch
Ven rừng bến nước dấu liên hồi
Vạch cỏ ruồng cây thấy được thôi
Ví phải non sông lại sâu thẳm
Ngất trời lỗ mũi hiện ra rồi.
Giảng Giải
Bến
bờ sông, trên bờ suối, dưới mé rừng dấu chân trâu rất nhiều. Nên chú mục đồng
vạch cỏ cây lùm bụi để tìm trâu, chú cho rằng trâu sẽ ở đâu đây. Dầu cho là núi
sâu lại ở chỗ sâu thẳm, nhưng mà lỗ mũi cao ngất trời dấu đâu được nữa. Tức là
tìm kiếm mà thấy dấu rồi nhất định sẽ thấy trâu không nghi ngờ.
Lời
Phật dạy trong Kinh, lời Tổ dạy trong Luận, trong ngữ lục, là mỗi chúng sanh
đều có sẵn Tánh Giác. Hành giả tin Phật, Tổ không nói dối nên ráng sức tu tập
theo lời Phật Tổ dạy, không sớm thì muộn chắc chắn sẽ được thành Phật.
Tranh Thiền Tông Số 3: Thấy Trâu
Dẫn
Từ
tiếng được vào, chỗ thấy liền đúng. Cửa sáu căn rành rõ không sai, trong động
dụng rành rành hiển lộ. Chất muối trong nước, sắc xanh trong keo. Vén chân mày
lên chẳng phải vật khác.
Giảng Giải
Trâu
chỉ cho Tánh Giác không sanh không diệt sẵn có nơi mỗi người.
Từ
tiếng được vào, chỗ thấy liền đúng: Khi nghe tiếng không chạy theo tiếng để
phân biệt hay dở, nhân khi nghe tiếng nhận ra nơi mình có Tánh nghe, đó là cửa
từ Quan Âm vào. Ở nơi mắt sẵn có Tánh thấy là cái chân thật, ở nơi mũi, nơi
lưỡi cũng có cái chân thật nên nói: Cửa sáu căn rành rõ không sai. Nơi mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân ý lúc nào cũng có Tánh Giác chân thật hiện tiền không mất.
Trong
động dụng rành rành hiển lộ: Tánh giác hiển hiện nơi mọi động dụng của con
người đâu có lúc nào thiếu vắng. Nhưng vừa động dụng là có vọng thức xen tạp,
nên người không sáng là không nhận ra được. Đây dùng ví dụ Chất muối trong
nước, sắc xanh trong keo: Ngay trong nước biển có muối mà ít người biết, phải
chờ đem nước lên ruộng, nước bốc hơi, muối đọng lại, thấy muối mới có tin trong
nước biển có muối. Sắc xanh hòa với adao, trong hợp chất đó có lẫn trong nhau
mà chúng ta không phân biệt được. Cũng vậy khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần,
chúng ta không nhận ra Tánh thấy, Tánh nghe... là cái chân thật đang hiện hữu
mà chỉ biết có nhãn thức hoặc nhĩ thức... phân biệt đẹp xấu hay dở. Nếu ngay
nơi sáu căn sẵn có Tánh thấy, Tánh nghe chân thật mà nhận được thể tánh chân
thật ấy đó là thấy trâu. Nên nói: Vén chân mày lên chẳng phải vật khác. Vén
lông mày lên thì mắt thấy rõ chứ gì! Phải không? Thấy trâu là nhận nơi mình có
thể tánh chân thật lúc nào cũng hiển lộ nơi sáu căn.
Tụng
Hoàng
Li chi thượng nhất thanh thanh
Nhật
noãn phong hòa ngạn liễu thanh
Chỉ
thử cánh vô hồi tị xứ
Sân
sân đầu giác họa nan thành.
Dịch
Hoàng
anh cất tiếng hót trên cành
Nắng
ấm gió hòa bờ liễu xanh
Chỉ
thế, không nơi xoay trở lại
Đầu
sừng rành rõ vẽ khôn thành.
Giảng Giải
Trên
cành cây, chim hoàng anh hót từng tiếng, từng tiếng. Trời ấm, gió mát, trên bờ
có rặng liễu xanh. Chỉ ở đây, không có chỗ xoay lại được nữa. Rõ ràng trâu hiện
đầu sừng ra rồi mà vẽ không được.
Ngay
khi mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, không khởi thức
phân biệt đẹp xấu, hay dở, thấy chỉ thấy, nghe chỉ nghe...ngay khi đó Tánh
thấy, Tánh nghe đang hiện hữu rõ ràng. Thể Tánh chân thật hiển hiện rõ ràng mà
không diễn tả được.
Tranh Thiền Tông Số 4: Được Trâu
Dẫn
Vùi
lấp ngoài đồng hoang đã lâu, ngày nay gặp được y. Do cảnh đẹp nên khó đuổi, mến
cỏ non chẳng chịu thôi. Tâm ngang ngạnh khá mạnh, tánh hoang dã vẫn còn. Muốn
được thuần hòa cần phải roi vọt.
Giảng Giải
Vùi
lấp ngoài đồng hoang đã lâu, ngày nay gặp được y: Mỗi người chúng ta có tâm thể
chân thật, mà bị vọng tình phủ che nhiều đời nhiều kiếp. Giống con trâu bị cỏ
cây vùi lấp ngoài đồng hoang. Nay tuy đã nhận ra được tâm thể chân thật của
chính mình, vậy mà khi nghe nói trái tai thì sân si liền dấy khởi ... chỉ nghe
toàn tiếng hơn thua phải quấy, chớ không nhớ mình có sẵn Tánh nghe là tâm thể
chân thật đang hiện hữu, cho nên nói vùi lấp ở ngoài đồng hoang. Do cảnh đẹp
nên khó đuổi, mến cỏ non chẳng chịu thôi vì trâu còn mê cảnh đẹp, đuổi nó không
chịu về, nó thích cỏ non cứ mải mê ăn chẳng chịu thôi. Chú mục đồng xỏ mũi kéo
nó, nó không chịu quay đầu. Tánh thấy, Tánh nghe tự nó không có đuổi theo ngoại
cảnh, chỉ vì vọng tình, vọng thức che làm mờ đi. Chúng ta muốn cho nó luôn luôn
hiển lộ mà ngược lại tình thức cứ phủ che làm cho nó khuất mờ. Tâm ngang ngạnh
khá mạnh, tánh hoang dã vẫn còn: Tuy nhận ra tánh giác rồi, nhưng chưa phải xong
việc mà còn phải gìn giữ nó luôn hiện hữu, song gìn giữ không phải dễ dàng. Vì
thói quen lâu đời như mắt thấy sắc liền phân biệt tốt xấu, tai nghe tiếng liền
phân biệt hay dở, mà không nhớ mình có tánh thấy, không nhớ mình có tánh nghe,
chỉ rong ruổi theo hình thức, ngông cuồng chạy ngược chạy xuôi, kềm giữ thật là
khó khăn. Muốn được thuần hòa cần phải roi vọt: muốn cho tâm được an tịnh,
không chạy theo trần cảnh, thì khi vừa thấy vọng niệm dấy khởi phải rầy: Vọng,
không thật! Nếu quở mà vọng không lặng, cứ dấy khởi hoài thì la: Mày là vọng
tưởng đã dẫn tao đi mãi trong luân hồi sanh tử, hôm nay muốn dẫn tao xuống địa
ngục nữa sao? Rầy la đó gọi là roi vọt trừng trị tâm thức ngông cuồng. Đó là
hình ảnh diễn tả tâm thức cuồng loạn chạy ngược chạy xuôi. Nhưng cách diễn tả
này có chỗ không hợp nhất, con trâu chỉ cho tánh giác chân thật, mà cái chân
thật thì không chạy. Bởi tình thức vọng động ngăn che làm cho tánh giác khuất
đi, tình thức vọng động lặng rồi thì tâm thể hiển lộ. Đây mượn hình ảnh con
trâu ngông cuồng nói lên sự gìn giữ tâm chân thật luôn luôn hiển lộ thật là
khó.
Tụng
Kiệt tận thần thông hoạch đắc cừ
Tâm cường lực tráng tốt nan trừ
Hữu thời tài đáo cao nguyên thượng
Hựu nhập yên vân thâm xứ cư.
Dịch
Dùng hết thần thông bắt được y
Tâm hùng sức mạnh khó khăn ghì
Có khi vừa hướng cao nguyên tiến
Lại xuống khói mây mãi nằm ỳ.
Giảng Giải
Chú
mục đồng tận dụng hết sức lực mới bắt được trâu, xỏ mũi cột vàm. Tuy bắt được
nó rồi, nhưng tâm nó cang cường, sức nó mạnh nên khó chế ngự điều phục, lại có
khi nó vừa đến cao nguyên lại chui vào mây khói ở sâu trong đó.
Hành
giả đã tận lực huân tu mới nhận được thể tánh chân thật của chính mình. Tuy đã
nhận ra, nhưng nó không thường hiển lộ, vì tập khí lâu đời nên mỗi khi căn tiếp
xúc trần liền phân biệt tốt xấu hay dở, chớ không nhớ mình có cái biết không
phân biệt, và cứ như thế chạy theo trần cảnh khởi vô số vọng niệm khó mà điều phục. Cao nguyên là dụ cho tâm thể chơnthật đang hiển hiện, mây khói là dụ cho thức tình vọng tưởng. Có khi tâm thể
chơn thật mới vừa hiện ra chưa được ba phút, nó lại ẩn trong đám mây mờ vọng
tưởng đang dấy khởi. Bị vọng tưởng che phủ, nó không hiện hữu giống như trâu
lên cao nguyên đứng thì dễ thấy, nếu nó lủi vô đám sương mù thì mất hút. Tâm
chúng ta cũng vậy, mới vừa an lặng rõ ràng hiện tại, bất chợt vọng niệm dấy
khởi liền che mất, thật lâu mới hiện lại, hiện trong phút chốc rồi lại bởi vọng
tưởng nữa. Hình ảnh này diễn tả thật cụ thể sự tư tập rất khó khăn ở giai đoạn
đầu.
Tranh Thiền Tông Số 5: Chăn Trâu
Dẫn
Nghĩ
trước vừa dấy, niệm sau liền theo. Do giác nên được thành chơn, bởi mê lầm nên
làm thành vọng. Chẳng phải do cảnh có, chỉ tự tâm sanh. Dây mũi nắm chắc không
cho toan tính.
Giảng Giải
Nghĩ
trước vừa dấy, niệm sau liền theo: Vừa khởi nghĩ về cảnh về người liền có ý
niệm về cảnh về người hiện ra, niệm này vừa dứt, niệm khác tiếp theo dấy khởi
liên tục. Do giác nên được thành chơn, bởi mê lầm nên làm thành vọng Niệm vừa
khởi liền biết nó là vọng tưởng không theo, vọng tưởng lặng thì thành chơn. Nếu
mê, niệm khởi chạy theo niệm, niệm này tiếp niệm khác nên làm thành vọng. Chỗ
này diễn đạt đầy đủ ý nghĩa của sự tu hành: niệm khởi, ngay đó liền giác thì
thành chơn, nếu mê chạy theo niệm thì thành vọng. Lục Tổ nói: "Không sợ
niệm khởi mà sợ giác chậm" là đây vậy. Chẳng phải do cảnh có, chỉ tự tâm
sanh: Khi lên bồ đoàn ngồi Thiền, tâm hành giả không có cảnh vật gì cả. Vậy mà
ngồi một chút nhớ chuyện năm xưa, nghĩ chuyện năm tới, đủ mọi cảnh vật hiện ra.
Đó là không đợi có cảnh mới dấy niệm, mà chính nơi tâm sanh khởi niệm và sanh
khởi hoài. Vậy nên phải Dây mũi nắm chắc không cho toan tính: Tuy con trâu đã
theo chú mục đồng, nhưng chú không dám buông dây mũi sợ nó chạy bậy vào lúa mạ
người. Cũng vậy, chúng ta tuy biết rõ ràng ý niệm là vọng tưởng, không phải là
tánh giác chân thật của chính mình, song nếu chúng ta lơi lỏng, tỉnh giác yếu
thì vọng niệm dấy khởi liền chạy theo. Vì vậy mà phải tỉnh giác miên mật, lâu
ngày mới thuần thục.
Ai
tới mục này? - Ai tiến tới mục này là đã đi được nửa đường tu rồi đó!
Tụng
Tiên sách thời thời bất ly thân
Khủng y túng bộ nhập ai trần
Tương tương mục đắc thuần hòa dã
Cơ tỏa vô ức tự trục nhân.
Dịch
Nắm chặt dây roi chẳng lìa thân
Ngại y chạy sổng vào bụi trần
Chăm chăm chăn giữ thuần hòa dã
Dây mũi buông rồi vẫn theo gần.
Giảng Giải
Roi
và dây chú mục đồng luôn luôn nắm trong tay không bao giờ rời. Chú sợ trâu nhảy
vọt vào lùm bụi, nên phải luôn luôn chăn thật kỹ. Bao giờ trâu được thuần rồi,
thì chừng đó mới buông dây mũi không kềm chế nữa, trâu tự nó đi theo chú.
Tuy
đã nhận ra thể tánh chân thật rồi nhưng vọng niệm vẫn còn dấy khởi, nên hành
giả phải luôn luôn phản tỉnh, niệm dấy lên liền biết không theo, và thường
xuyên tỉnh giác. Như thế thì lâu ngày tâm sẽ thuần, chừng dó muốn khởi niệm thì
niệm khởi, không muốn niệm khởi thì tâm lặng lẽ thanh tịnh.
Tranh Thiền Tông Số 6: Cỡi Trâu Về Nhà
Dẫn
Can
qua đã hết, được mất về không. Hát khúc ca ông tiều, thổi bản nhạc của chú mục
đồng. Ngồi ngang trên lưng trâu mắt ngắm trời mây. Kêu gọi không xoay đầu, kéo
lôi chẳng đứng.
Giảng Giải
Can
qua đã hết, được mất về không: Trâu đã thuần rồi, không còn đánh đập hay ghì
kéo nó nữa. Lúc đó được mất không còn quan tâm, vì thấy được, mất, phải, quấy
đều không thật, chỉ là giả lập, thì có cái gì phải bận lòng. Hát khúc ca ông
tiều, thổi bản nhạc của chú mục đồng. Ngồi ngang trên lưng trâu mắt ngắm trời
mây: Mọi việc thịnh suy của cuộc đời, hành giả không bận lòng. Do đó tâm được
thư thả nhàn hạ, nên mới thổi nhạc của kẻ chăn trâu, hát bài ca của người đốn
củi, tâm bình thản ngắm nhìn trời mây, không bị ngoại cảnh chi phối, thường
được thanh bình an vui. Kêu gọi không xoay đầu, kéo lôi chẳng đứng: Khi tâm
được thanh tịnh bình an thì dù cho ngoại duyên có quyến rũ lôi cuốn, lòng vẫn
không vướng bận, hoặc ngoại duyên có làm xúc não cũng không buồn giận, vẫn bình
thản vô tư mà sống với Đạo.
Tụng
Kỵ ngưu đà lê dục hoàn gia
Khương địch thanh thanh tống vãn hà
Nhất phách nhất ca vô hạn ý
Tri âm hà tất cổ thần nha.
Dịch
Cỡi trâu thong thả trở về nhà
Tiếng sáo vi vi tiễn vãn hà
Một nhịp một ca vô hạn ý
Tri âm nào phải động môi à.
Giảng Giải
Chú
mục đồng cỡi trâu đi bên vệ đường để trở về quê nhà. Tiễn biệt trời chiều,
miệng chú thổi sáo vi vu, tay chú gõ nhịp, chú ca câu ca tuyệt vời. Bấy giờ
trâu đã trở thành bạn tri âm của chú, chú đâu nó đó, chú không còn rầy la đánh
đập nó nữa.
Người
tu Thiền điều phục tâm đến chỗ thị phi gác bỏ ngoài tai, được mất không bận
lòng, sống trọn ngày chỉ biết cười vui, tự mình cũng không còn nhọc nhằn dụng
công. Người hướng dẫn tu cũng vui cười, không còn bận lòng nhắc nhở hoặc la
rầy.
Tranh Thiền Tông Số 7: Quên Trâu Còn Người
Dẫn
Pháp
không hai pháp, trâu gọi là tâm. Dụ tên khác của thỏ bẫy, bày sai biệt của cá
tôm. Như vàng ra khỏi khoáng, tợ trăng không mây. Một đường quang sáng, ngoài
kiếp oai âm.
Giảng Giải
Pháp
không hai pháp, trâu gọi là tâm: Tâm thể chân thật không hình tướng, vượt ra
ngoài đối đãi hai bên, nên gọi là pháp không hai. Trâu chỉ cho tâm hay gọi là
Thiền. Dụ tên khác của thỏ bẫy, bày sai biệt của cá tôm: Người bẫy thỏ làm cái
bẫy để bắt thỏ, con thỏ và cái bẫy là hai loại khác nhau. khi làm cái bẫy gài
thỏ thì được gọi là bẫy thỏ. Nghĩa là cái bẫy là cái bẫy, con thỏ là con thỏ,
nhưng vì cái bẫy để gài thỏ nên được gọi là bẫy thỏ. Cũng như cái nôm dùng để
bắt cá, gọi là cá nôm, thật thì cái nôm không phải là con cá. Cũng vậy, con
trâu tượng trưng cho tâm (thể), tâm không phải là trâu. Ở dây, mượn ngôn từ con
trâu nói na ná cho người hiểu, nương theo đó để mà tu tập. Như vàng ra khỏi
khoáng, tợ trăng không mây: Vàng đã lọc rồi, thì thuần là vàng, không còn có
cát sạn lẫn lộn. Như mặt trăng trong trời không mây sáng rỡ. Người tu đến đây,
tâm thanh tịnh sáng suốt không bị vẫn đục bởi tình thức loạn tưởng, giống như
vàng ròng, hay mặt trăng sáng đêm không mây. Một đường quang sáng, ngoài kiếp
oai âm: Chỉ còn một tâm thể thanh tịnh sáng suốt, không chút vọng thức xen tạp,
nên xuyên suốt cả không gian và thời gian, đối với không gian thì không thấy có
giới hạn, với thời gian thì thấy không có thủy, không có chung. Người tu tới
đây thường lầm cho là đã thành Phật vì tâm thể thật thanh tịnh sáng suốt.
Tụng
Kỵ ngưu dĩ đắc đáo gian san
Ngưu dã không hề nhân dã nhàn
Hồng nhật tam can du tác mộng
Tiên thằng không đốn thảo đường gian.
Dịch
Cỡi trâu về thẳng đến gian san
Trâu đã không rồi, người cũng nhàn
Mặt nhật ba sào vẫn say mộng
Dây roi dẹp bỏ bên cạnh sàng.
Giảng Giải
Chú
mục đồng đã cỡi trâu về đến nhà rồi, chú không còn bận lòng nghĩ đến trâu để
chăn giữ nữa, nên nói trâu đã không còn, chú được rảnh rang nhàn rỗi nên sáng
ngày, mặt trời lên ba sào mà chú vẫn còn ngủ say. Khi ấy, dụng cụ chăn trâu như
roi dây không cần, quăng hết vô nhà cỏ.
Cũng
vậy, khi tâm vọng tưởng không còn dấy khởi nữa, hoàn toàn lặng lẽ, tức là tâm
đã trở lại chỗ ban sơ thanh tịnh sáng suốt thì hành giả không còn dụng công tu
tập nữa, đối với mọi vật không bận lòng, tùy thời đói ăn mệt ngủ.
Tranh Thiền Tông Số 8: Người Trâu Đều Quên
Dẫn
Tình
phàm rơi rớt, ý thành đều không, chỗ có Phật chẳng cần ngao du, chỗ không Phật
phải chạy qua gấp. Hai đầu không dính, ngàn mắt khó xem. Trăm chim ngậm hoa,
một trường bối rối.
Giảng Giải
Tình
phàm rơi rớt, ý thành đều không: Chúng sanh còn mê cho nên là phàm, thấy mình
mê, biết Phật giác gọi đó là Thánh. Khi không còn thấy phàm thánh đối đãi nữa,
nên nói phàm thánh đều không. Do đó trong nhà Thiền hay nói chỗ có Phật chẳng
cần ngao du, chỗ không Phật phải chạy qua gấp. Chỗ không Phật phải chạy qua gấp
thì hợp lý, nhưng chỗ có Phật sao không cần ngao du? Vì: "Có Phật",
"Không Phật" là ngôn ngữ hai bên đối đãi, giả lập không thật nên phải
vượt qua. Qua hết đối đãi là không còn trâu, không còn người chăn. Hai đầu
không dính, ngàn mắt khó xem: Khi tâm không còn dính mắc hai bên đối đãi, tranh
chỉ là vòng tròn trắng tượng trưng tánh Viên Giác. Tánh Viên Giác thì không có
một vật, không hình, không tướng thì thấy cái gì? Cho nên nói ngàn mắt khó xem.
Trăm chim ngậm hoa, một trường bối rối: Đây dẫn chuyện của ngài Ngưu Đầu Pháp
Dung. Trước khi gặp Tứ Tổ Đạo Tín, Ngài quán từ bi nên được chim thương mến đem
hoa trái đến cúng dường. Khi gặp Tứ Tổ Đạo Tín dạy buông hết cả kiến chấp hai
bên, ngài tu một thời gian sạch hết vọng niệm hai bên, thì từ đó chim không
cúng dường hoa trái nữa. Đói với người chưa thấu lý Thiền, thì cho rằng trước
Ngài tu cao có nhiều phước, nên được chim cúng dường, sau ngài tu dở ít phước,
nên chim không cúng dường nữa. Lý đó không đúng, vì tu đến chỗ không còn thấy
hai bên, không còn khởi niệm để quán, nên chim không thấy không biết và không
đem hoa trái đến cúng dường. Nếu người tu còn để chư Thiên hay chim đem hoa
trái đến cúng dường là còn niệm, còn quán, nên nói rằng còn bối rối, chưa ra
khỏi hai bên.
Tụng
Tiên sách nhân ngưu tận thuộc không
Bích thiên lưu quách tín nan thông
Hồng lô diệm thượng tranh dung tuyết
Đáo thử phương năng hiệp Tổ Tông.
Dịch
Roi gậy người trâu thảy đều không
Trời xanh thăm thẳm tín chẳng thông
Lò hồng hừng hực nào dung tuyết
Đến đó mới hay hiệp Tổ Tông.
Giảng Giải
Trâu
đã không nên roi gậy cũng bỏ, người chăn cũng không nốt. Trời xanh thênh thang
không có một gợn mây, thì lúc đó trông thấy cái gì? Cho nên tin tức không thông
được. Lò lửa đỏ hừng đâu còn một mảnh tuyết. Chừng đó mới hiệp với con đường
Phật Tổ đi.
Người
khi đã vượt qua kiến chấp đối đãi hai bên thì không còn ngã và pháp. Ngã pháp
không còn thì trí tuệ viên mãn, nên tượng trưng bằng vòng tròn Viên giác, chỗ
mà Lục Tổ nói: "Bản lai vô nhất vật" đó vậy.
Tranh Thiền Tông Số 9: Trở Về Nguồn Cội
Dẫn
Xưa
nay thanh tịnh, chẳng nhận mảy trần. Xem có tướng phải chịu tươi khô, ở vô vi
thì ngưng lặng. Chẳng đồng huyễn hóa đâu nhờ tu hành. Nước biếc non xanh ngồi
xem thành bại.
Giảng Giải
Xưa
nay thanh tịnh, chẳng nhận mảy trần: Bản nguyên chân thật của mỗi người xưa nay
vốn là thanh tịnh, không có một vật thì bụi trần làm sao dính được. Xem có
tướng phải chịu tươi khô, ở vô vi thì ngưng lặng: Nếu vật có hình tướng thì bị
vô thường chi phối, có tươi, có khô, có sanh có diệt, luôn luôn biến đổi. Nếu
là vô vi không hình tướng thì chìm trong vắng lặng. Vậy, pháp có tướng thì sanh
diệt, không tướng thì chìm trong trống lặng nên phải vượt qua. Chẳng đồng huyễn
hóa đâu nhờ tu hành: Bản nguyên chân thật của mỗi người không phải là pháp hư
dối huyễn hóa thì đâu nhờ dụng công tu hành mà được. Vì nó vốn sẵn có như vậy.
Nước biếc non xanh ngồi xem thành bại: Người mà sống với bản nguyên của mình,
thì đối với các pháp thì thấy rõ bản vị của nó, tâm không mê muội, dao động
dính mắc. Thiền sư Duy Tín nói: (1) Chưa gặp thiện tri thức, thấy núi sông là
núi sông. (2) Gặp thiện tri thức chỉ dạy, thấy núi sông không phải là núi sông.
(3) Bây giờ ba mươi năm, thấy núi sông là núi sông. Giai đoạn (3) thấy núi sông
là núi sông đó là "Nước biếc non xanh ngồi xem thành bại". Đó là trở
về nguồn, là phản bổn hoàn nguyên.
Tụng
Phản bổ hoàn nguyên dĩ phí công
Tranh như trực hạ nhược manh lung
Am trung bất kiến am tiền vật
Thủy tự mang mang hoa tự hồng.
Dịch
Phản bổn hoàn nguyên đã phí công
Đâu bằng thẳng đó tợ mù câm
Trong am chẳng thấy ngoài vật khác
Nước tự mênh mông hoa tự hồng.
Giảng Giải
Cội
nguồn là tâm thể chân thật, nó vốn sẵn như vậy, không cần phí công để tìm,
không cần phí sức để trở lại. Chỉ cần mắt thấy sắc không phân biệt đẹp xấu. Tai
nghe tiếng không phân biệt hay dở. Thấy nghe mà không phân biệt tốt xấu, hay
dở, cũng giống như mù như điếc nên nói mù câm. Trong am là chỉ cho tâm thể
thênh thang trùm khắp không có một vật gì ngoài nó. Chừng đó mới thấy tự tại,
thấy nước mênh mông, thấy hoa tự nở hồng nở tía mà không bận tâm không vướng
mắc, đó là phản bổn hoàn nguyên, gọi là vào cảnh giới Phật.
Dẫn
Đóng
cánh cửa gỗ ngàn Thánh chẳng biết. Vùi phong quang chính mình, phụ lối mòn của
bậc hiền trước. Mang bầu vào chợ, mang gậy vào nhà. Quán rượu hàng cá chuyển
thành Phật Đạo.
Giảng Giải
Đóng
cánh cửa gỗ ngàn Thánh chẳng biết: Sau khi vào Phật giới, hành giả sửa soạn để
vào ma giới là đóng cửa am, xuống núi đi vào xóm làng chợ búa. Việc làm này,
chỉ tự biết chớ không ai biết được, cho tới Thánh cũng không biết nữa. Vùi
phong quang chính mình, phụ lối mòn của bậc hiền trước: Tuy đã giác ngộ sáng
suốt mà tự ẩn mình, không để cho người biết mình là người tu đã ngộ đạo. Xưa,
các bậc Hiền đã ngộ đạo rồi thì làm mẫu mực để giáo hóa chỉ dậy tín đồ, tăng
ni. Ngược lại, ở đây Thiền Sư lại bỏ hình tướng của người tu thanh tịnh mà đi
vào xóm làng làm con người rất tầm thường, không theo gương người xưa làm mẫu
mực cho đời, để mang bầu vào chợ, mang gậy vào nhà. Quán rượu hàng cá chuyển
thành Phật Đạo: Bấy giờ Thiền Sư vào quán rượu không phải để uống rượu, lại
hàng cá không phải để mua cá, mà để gần gũi giúp đỡ, hướng dẫn người uống rượu,
người bán cá về với Đạo. Chấp nhận hình ảnh xấu xa tầm thường để đưa người đến
với Đạo là hành động tích cực của người tu Thiền. Tinh thần tích cực của Phật
Giáo là không riêng nhận sự an lạc cho bản thân, mà tự che khuất mình bằng cách
giả dạng con người rất tầm thường, đi vào chỗ tầm thường, để gần gũi người tầm
thường thiếu đạo đức, chuyển họ về với Đạo.
Tụng
Lộ hung tiễn túc nhập trần lai
Phù thổ đồ khôi tiếu mãn tai
Bất dụng thần tiên chơn bí quyết
Trực giao khô mộc phóng hoa khai.
Dịch
Chân trần bày ngực thẳng vào thành
Tô đất trét bùn nụ cười thanh
Bí quyết thần tiên đâu cần đến
Cây khô cũng khiến nở hoa lành.
Giảng Giải
Thiền
Sư mặc áo bày ngực, chân không dày dép đi vào chợ để làm những việc rất tầm
thường như người đời. Miệng cười hỉ hạ tới mép tai, không cần gìn giữ giới hạnh
mẫu mực của người tu, không thuyết giảng giáo lý cao sâu mầu nhiệm, chỉ làm con
người rất bình thường để dạy cho những người bán cá, bán thịt ở ngoài chợ, ở
quán rượu, là những con người không có chút đạo đức, khiến cho họ có chút đạo
đức biết tu hành. Đó là trọng trách giáo hóa của người tu đã đến chỗ viên mãn.
Chỗ này là chỗ thiết yếu, hành giả cần phải hiểu cho rõ, người tu sau khi vào
cảnh giới Phật tức là đã triệt ngộ, rồi mới vào cảnh giới ma để lăn xả vào đời,
làm lợi ích cho đời.
Nếu
chưa ngộ, chưa vào cảnh giới Phật mà vào cảnh giới ma, tự mình đã không tu tiến
mà cũng không làm lợi ích cho người được, thì chắc chắn sớm muộn gì thì cũng
thành ma. Đừng nghe loáng thoáng, hiểu lờ mờ rằng mỗi người ai cũng có Phật
Tánh, cho rằng mình cũng có ông Phật rồi tùy ý phóng đãng, ăn nhậu, chơi bời
làm chuyện tội lỗi, thì sẽ rơi vào địa ngục như tên bắn. Vì vậy, học là phải
hiểu cho chính chắn, cho thấu suốt để tu tập không sai lầm, và tu đến nơi đến
chốn.
Gởi bởi