Ðản
mạc tắng ái, đổng nhiên minh bạch, ở trên nói giản trạch là chọn lựa, ở đây bảo
chớ khởi yêu ghét, yêu ghét là bệnh, là gốc của sanh tử luân hồi, hết yêu ghét
thì tâm rỗng rang sáng sủa.
Tín Tâm Minh
Thích Thanh Từ Giảng giải
1. Giải Ðề
Nay
tôi giảng bài Tín Tâm Minh của
Tổ Tăng Xán. Tổ Tăng Xán là vị Tổ thứ ba, đệ tử của Tổ Huệ Khả. Trong đời Ngài
không có gì truyền bá giảng dạy sâu rộng, chỉ có một người đệ tử sau này thừa
kế là Ngài Ðạo Tín. Ðời Ngài chỉ để lại có một bài Tín Tâm Minh, một bản văn
rất gọn và đầy đủ ý nghĩa trong nhà Thiền. Học Thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn
mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của Thiền, bao
nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh. Tín Tâm là tin nơi tâm mình, Minh là
ghi, là khắc lại. Tức là những lời được ghi đọc lên chúng ta tin chắc tâm mình,
biết rõ được tâm mình, đó là chủ yếu của Tổ. Vì văn gọn, tôi vừa đọc vừa giảng
để quý vị hiểu.
2. Chánh Văn
Dịch âm:
Chí đạo vô nan,
Duy hiềm giảng trạch.
Ðản mạc tắng ái,
Ðổng nhiên minh bạch.Dịch
nghĩa:
Chí
đạo không khó,
Chỉ
hiềm lựa chọn.
Chớ
khởi yêu ghét,
Rỗng suốt minh bạch.
Giảng
giải:
Chí
đạo là chỗ tột cùng, vô nan là không khó, duy là chỉ, hiềm là không bằng lòng,
giảng trạch là lựa chọn. Chí đạo tột cùng không khó, mà khó ở chỗ còn lựa chọn.
Chí đạo có chỗ gọi là chơn tâm, Phật tánh, đại đạo. Ðối với chơn tâm, Phật tánh
chúng ta muốn sống được không phải khó. Sở dĩ khó là tại chúng ta quen lựa
chọn, nghĩa là đối cảnh liền sanh tâm phân biệt tốt xấu, hay dỡ... Ðó là trái
với đạo. Vì vậy nên nói Chí đạo vô nan, duy hiềm giảng trạch, tám chữ này nói
đến chỗ tột cùng, muốn sống được với tâm thể chơn thật không khó khăn gì, chỉ
đừng chạy theo tâm lựa chọn. Vì chọn lựa là tâm hư vọng, nếu không sống với tâm
hư vọng thì tâm chơn thật hiện ra.
Ðản
mạc tắng ái, đổng nhiên minh bạch, ở trên nói giản trạch là chọn lựa, ở đây bảo
chớ khởi yêu ghét, yêu ghét là bệnh, là gốc của sanh tử luân hồi, hết yêu ghét
thì tâm rỗng rang sáng sủa.
Chí
đạo không khó, vì chọn lựa nên thành khó. Bây giờ muốn cho nó hiện ra thì tâm
chớ có yêu ghét. Nếu không yêu ghét thì nó rỗng rang sáng sủa, không cần tìm
kiếm đâu xa, không phải lên núi cao, vào rừng rậm mới có đạo, chỉ cần dứt sạch
sự chọn lựa, buông được yêu ghét thì đạo hiện tiền.
Dịch
âm:
Hào
ly hữu sai,
Thiên
địa huyền cách.
Dục
đắc hiện tiền,
Mạc
tồn thuận nghịch.
Dịch
nghĩa:
Sai
lạc đường tơ,
Ðất
trời xa cách.
Muốn
được hiện tiền,
Chớ
còn xuôi ngược.
Giảng
giải:
Hào
ly hữu sai, thiên địa huyền cách: nếu sai chừng một hào, một ly thì cách xa
bằng trời với đất. Ðối với việc tu hành chúng ta phải hiểu đến cội gốc, chớ
khởi niệm tìm cầu Niết Bàn, tìm cầu chứng đắc. Vừa khởi niệm là sai, là cách xa
chỗ chí đạo, khi đã sai thì cách xa đạo bằng trời với đất. Cho nên nhiều người
tu muốn đạt đạo lại dụng tâm thế này thế kia, đã không được đạo lại càng cách
xa đạo.
Dục
đắc hiện tiền, mạc tồn thuận nghịch: muốn chí đạo hiện tiền thì chớ còn nghịch
thuận. Vừa có thuận nghịch hai bên thì đạo không hiện tiền. Dứt được thuận
nghịch thì đạo hiện tiền.
Tám
câu này chủ yếu Tổ dạy: muốn sống với cái chơn thật không gì hơn là đừng phân
biệt chọn lựa hai bên. Nếu không phân biệt thì yêu ghét không, chạy theo hai
bên cũng không. Vừa có niệm yêu ghét thuận nghịch thì mất đạo rồi. Dứt niệm hai
bên thì đạo hiện tiền minh bạch.
Dịch
âm:
Vi
thuận tương tranh,
Thị
vi tâm bệnh.
Bất
thức huyền chỉ,
Ðồ
lao niệm tịnh.
Dịch
nghĩa:
Thuận
nghịch tranh nhau,
Ðó
là tâm bệnh.
Chẳng
biết huyền chỉ,
Nhọc
công niệm tịnh.
Giảng
giải:
Vi
thuận tương tranh, thị vi tâm bệnh: Người tu vừa thấy đây là thuận, kia là
nghịch chống đối nhau, đó là tâm bịnh chớ không phải đạo, không phải Thiền.
Bất
thức huyền chỉ, đồ lao niệm tịnh: Vì không biết ý chỉ u huyền này nên nhọc công
niệm tịnh. Cứ quán chỗ lặng lẽ cho đó là đạo; đạo là chỗ không còn kẹt hai bên,
tâm không dính hai bên thì đạo hiện tiền, còn kẹt hai bên là bệnh. Vì vậy người
biết yếu chỉ sâu huyền thì phải buông xả kiến chấp hai bên thì khỏi nhọc công
niệm tâm thanh tịnh.
Dịch
âm:
Viên
đồng thái hư,
Vô
khiếm vô dư.
Lương
do thủ xả,
Sở
dĩ bất như.
Dịch
nghĩa:
Tròn
đồng thái hư,
Không
thiếu không dư.
Bởi
do thủ xả,
Vì
thế chẳng như.
Giảng giải:
Tâm chơn thật tròn đồng với thái hư, tức là rộng thênh thang như hư không, không thiếu mà cũng không dư, bởi vì còn thủ xả nên không được như như. Nghĩa là tâm thể tròn đồng với thái hư không thiếu không thừa, bởi có niệm thủ xả nên không được như như. Vậy muốn tâm như như, thì đối với tất cả pháp đều không lấy không bỏ, Hiểu được như vậy mới thấy nơi mọi người chúng ta đều có tâm thể rộng khắp cả bầu trời (thái hư) thênh thang tự tại bất sanh bất diệt, nên nói là Như.
Dịch
âm:
Mạc
trục hữu duyên,
Vật
trụ không nhẫn,
Nhứt
chủng bình hoài,
Dẫn
nhiên tự tận.
Dịch
nghĩa:
Chớ
đuổi duyên trần,
Cũng
đừng không nhẫn.
Một
lòng bằng phẳng,
Lặng
yên tự dứt.
Giảng giải:
Mặc trục hữu duyên, vật trụ không nhẫn: chớ có theo duyên, cũng chớ có trụ không nhẫn. Nhứt chủng bình hoài, dẫn nhiên tự tận: Tâm mình bằng phẳng, lặng yên dứt hết. Ðừng chạy theo có, không. Có, không đều chẳng kẹt chẳng mắc thì tâm yên ổn bằng phẳng, dứt hết mọi điên đảo rối ren, tâm tự hết phiền não, tự nhiên an ổn.
Dịch
âm:
Chỉ
động qui tịnh,
Chỉ
cách di động.
Duy
trệ lưỡng biện,
Dịch
nghĩa:
Ngăn
động về tịnh,
Hết
ngăn lại động.
Chỉ
kẹt hai bên,
Ninh
tri nhứt chủng.
Ðâu
biết một thứ.
Giảng
giải:
Chỉ
động qui tịnh, chỉ cách di động: dừng động về tịnh, dừng đó lại càng thêm động
niệm. Vừa dấy lên liền đè xuống (chẳng khác nào đè cỏ). Niệm trước vừa dừng,
niệm sau lại càng tiếp tục dấy khởi, nên càng dừng động thì động dấy khởi thêm
chớ không dứt; cũng như trái banh chọi vô tường, tưởng đâu nó dừng, chọi mạnh
chừng nào nó càng dội mạnh chừng ấy. Vì vậy đối với tâm tu Thiền thường mắc hai
cái lỗi: một là buông thả, hai là kềm giữ. Buông thả là phóng tâm theo cảnh,
kẹt bên này dính bên kia. Chỉ nhè nhẹ, nhè nhẹ biết không theo niệm là được
rồi. Nhìn thẳng nó chớ không phải đè, vì càng đè càng thêm động.
Duy
trệ lưỡng biên, ninh tri nhứt chủng: Vì kẹt hai bên có không, phải quấy, đâu
biết một thứ. Kẹt hai bên không bao giờ thấy được cái chân thật (vì còn đối
đãi).
Dịch
âm:
Nhất
chủng bất thông,
Lưỡng
xứ thất công.
Khiển
hữu một hữu,
Từng
không bối không.
Dịch
nghĩa:
Một
thứ chẳng không,
Hai
chỗ mất công.
Ðuổi
có mất có,
Theo
không phụ không.
Giảng
giải:
Nhất
chủng bất thông, lưỡng xứ thất công: Một thứ không thông thì hai chỗ thất công.
Nghĩa là một mà không thấu suốt cứ chạy theo hai, theo hai chừng nào càng uổng
công chừng nấy chứ không có lợi gì. Quý vị thấy tất cả chúng ta đều sống với
cái hai, vì sống với cái hai nên nằm trong đối đãi, không thấu được lẽ thật.
Càng chạy theo cái không thật thì kẹt mãi ở hai bên, càng phí sức uổng công
không tới đâu hết. Buông được hai bên thì về với đạo.
Khiển
hữu một hữu, tùng không bối không: bây giờ dẹp Có thì không có, theo Không thì
trái không. Người tu cho cái này Có, bỏ đi thì Có trở thành Không, mà theo
Không thì trái với không. Chúng ta thường nghĩ cái này cái kia là thật. Thấy Có
là thật nên muốn dẹp Có tức nhiên chìm trong Có, còn bỏ Không thì trái với
không. Như vậy đối với Có Không phải làm thế nào? Nếu cố tình dẹp Có là đã chìm
trong có, hễ theo Không tức là trái với không. Bởi vì Có nó không thật mà chấp
vào nó hay cố dẹp nó tức là thấy nó thật rồi. Còn theo Không thì cũng không
thật, càng theo Không là càng trái với lẽ thật. Như vậy cả hai Có Không đừng
dẹp, đùng theo, biết nó là giả dối tức nhiên không kẹt. Cố dẹp nó là vô tình
nhận nó là có. Cố tình theo Không cũng vô tình thấy nó là thật. Cho nên tôi hay
nhắc tất cả quý vị, nhiều người tu cứ THEO vọng tưởng khó trị, khổ với ba thứ
vọng tưởng này quá. Lo sợ vọng tưởng, cố ý chống đối dẹp bỏ thì vô tình thấy nó
là thật có. Tôi thường thí dụ như bóng con cọp, biết nó là bóng cọp, có sợ
không? Biết nó là bóng không thật thì sợ cái gì? Dù có con cọp thật cũng không
sợ, huống là mới thấy bóng cọp mà sợ thì đó là si mê. Phải hiểu rõ như vậy.
Biết vọng tưởng là vọng thì sợ cái gì chớ? - Vậy mà cứ sợ - Ở đây có ai sợ
không? Không có dẹp vọng tưởng, biết đó là vọng tưởng không theo là đủ rồi, chớ
không còn cái gì khác hơn nữa, đó là chí lý rồi.
Dùng
cái này để trị, dùng cái kia để dẹp đó chỉ là bệnh. Cho nên phải hiểu cho thật
rõ cái không thật, nếu mình sợ nó thì nó biến thành thật. Nếu biết ma không
thật chỉ là bóng thật. Ví dụ như ma, ma có thật không? - Không. - Bây giờ mình
dấy niệm sợ nó thì nó biến thành thật. Nếu biết ma không thật chỉ là bóng dáng
thì nó đâu có nhát. Cái dụng của nó có giá trị là khi mình sợ nó, nếu biết rõ
nó không thật, dù nó có hiện hình le lưỡi, nhe răng đi nữa mình biết nó không
thật thì cũng không hại được mình. Ngược lại cứ nơm nớp sợ khi thấy bóng quế,
hồn ma nào phất phơ, thất thanh la hoảng lên rồi bảo mà hớp hồn kia nọ rồi
thành bệnh. Bệnh tại cái sợ. Cái không đáng sợ mà sợ đó là ngu si. Vọng tưởng
đâu đáng sợ vì nó là vọng, đã là vọng thì đâu có thật mà sợ. Hiểu như vậy khi
tu mới gan dạ, tỉnh táo nhìn mặt nó, nó là giả dối có gì đâu mà sợ, phải thấy
rõ nghĩa này. Nếu cố tình dẹp Có thì chìm sâu trong có. Cố tình chạy theo Không
là ngược lại với không. Muốn cho tâm không ngơ, càng muốn chừng nào càng có
chừng đó. Như vậy để hiểu rõ hai cái Có và Không là không thật thì không cần
dẹp, không cần phải theo.
Dịch
âm:
Ða
ngôn đa lự,
Chuyển
bất tương ưng.
Tuyệt
ngôn tuyệt lự,
Vô
xứ bất thông.
Dịch
nghĩa:
Nói
nhiều nghĩ nhiều,
Càng
chẳng tương ưng.
Dứt
nói dứt nghĩ,
Chỗ
nào chẳng thông.
Giảng
giải:
Ða
ngôn đa lự, chuyển bất tương ưng: Ðây là Tổ quở mấy người nhiều lời. Nói nhiều
thì nghĩ nhiều, lo nhiều thì càng chẳng tương ưng, tức là không phù hợp với
đạo. Người học đạo nói càng nhiều, phân biệt lanh lẹ thì không phù hợp với đạo.
Tổ bảo hãy để khóe miệng lên meo, như cây quạt mùa đông. Bây giờ khóe miệng
chúng ta sôi bọt mép, cho nên càng ngày càng xa với đạo chớ không hợp với đạo.
Tuyệt
ngôn tuyệt lự, vô xứ bất thông: Dứt lời dứt nghĩ, chỗ nào chẳng thông. Như vậy
người tu khi dứt nói, dứt nghĩ thì thông suốt hết, chỗ nào cũng thấy đạo.
Dịch
âm:
Qui
căn đắc chỉ,
Tùy
chiếu thất tông.
Tu
du phản chiếu,
Thắng
khước tiền không.
Dịch
nghĩa:
Về
nguồn được chỉ
Theo
chiếu mất tông.
Phút
giây soi lại,
Hơn
không trước kia.
Giảng
giải:
Qui
căn đắc chỉ, tùy chiếu thất tông: Trở về gốc thì được yếu chỉ, theo chiếu thì
mất tông, tức là mất ông chủ của mình. Chữ chiếu, quý vị phải hiểu cho rõ ràng,
đừng có hiểu lầm. Chiếu có hai cách: phản chiếu và tùy chiếu. Phản chiếu là soi
ra ngoài. Nếu soi ra ngoài thì mất tông, soi trở lại thì được lợi ích. Nói rằng
mình trở lại mình thì dễ thấy được cái chân thật. Nếu soi ra ngoài, cứ thấy
nghe, phân biệt cả ngày, phân biệt người ở ngoài thì mất ông chủ nơi mình, đó
là lẽ đương nhiên không nghi ngờ gì hết. Bây giờ tu du phản chiếu trong chốc
lát, mà biết chiếu ngược soi lại mình thì thắng khước tiền không, tức là hơn
hết những cái không ở trước. Nếu đè xuống là cảnh không, không bằng soi lại rõ
từng niệm của mình, không theo nó là thù thắng nhất. Cho nên nói: chỉ cần trong
chốc lát soi lại mình, thì cái đó thù thắng hơn cái không. Như vậy đồng thời
một chữ chiếu mà đứng ở hai mặt. Người tu khác với người thế gian ở chỗ đó.
Người thế gian suốt ngày để sáu căn chạy theo sáu trần, cho nên họ quên mất
chính họ. Họ chạy theo cái được mất, hơn thua, chớ không biết soi trở lại chính
mình.
Người
tu biết soi trở lại thấy rõ từng tâm niệm, từng hành động, từng phần một trong
nội tâm không có lầm lẫn. Thấy thân này là duyên hợp giả dối, tâm thì từng
niệm, từng niệm dấy khởi, sinh diệt rõ ràng. Do biết nó là giả dối, nên tâm
chơn thật hiện tiền. Vì vậy phản chiếu là việc tu, còn tùy chiếu là mất ông chủ
chắc chắn.
Dịch
âm:
Tiền
không biến chuyển,
Giai
do vọng kiến.
Dịch
nghĩa:
Không
trước chuyển biến,
Ðều
do vọng kiến.
Bất
dụng cầu chơn,
Duy
tu tức kiến.
Chẳng
cần cầu chơn,
Chỉ
cốt dứt kiến.
Giảng
giải:
Tiền
không biến chuyển, giai do vọng kiến: Cái không trước hay chuyển biến đều là do
vọng thấy. Người nhận thấy cái không cho nó là quan trọng, những người đó đều
do nơi vọng kiến nên chấp như vậy. Tỉ dụ: nghe nói tâm không cho cái Không đó
là quí, rồi tìm nó và đè xuống, như vậy là bám vào cái không, chấp chặc vào nó,
chấp không là do cái không trước biến ra.
Bất
dụng cầu chơn, duy tu tức kiến: Người tu chủ yếu đừng có cầu chơn, cầu chơn là
muốn thấy cho tâm, muốn thấy đã là bệnh rồi. Chỉ cần dừng hết mọi kiến chấp thì
chơn tâm hiện tiền. Chấp thật giả, phải quấy, vừa có những niệm chấp như vậy là
đã mất cái chân thật. Cho nên chủ yếu của sự tu hành là buông hết kiến chấp,
kiến chấp hết thì chơn tâm hiện bày.
Dịch
âm:
Nhị
kiến bất trụ,
Thận
vật truy tầm.
Tài
hữu thị phi,
Phấn
nhiên thất tâm.
Dịch
nghĩa:
Hai
kiến chẳng trụ,
Dè
dặt đuổi tìm.
Vừa
có thị phi,
Lăng
xăng mất tâm.
Giảng giải:
Nhị kiến bất trụ: Thấy có thấy không mà không trụ. Thận vật truy tầm: Dè dặt chớ có đuổi theo. Tài hữu thị phi, phấn nhiên thất tâm: Vừa có phải quấy thì lăng xăng mất tâm chân thật. Quý vị có thấy quyển kinh nào, quyển luận nào không quở cái thấy hai không? Phật Tổ quở chạy theo phải quấy mà mình hết phải quấy chưa? Nếu hết phải quấy thì chuyện gì đâu cần phải nói nhiều, sẽ yên lành điềm đạm. Người nào phải quấy nhiều thì người đó đa ngôn, đa sự lắm. Bởi vì thấy quấy, nên gặp nhau thì nói ông kia phải, bà này quấy, cả ngày phải quấy lăng xăng, càng nói phải quấy là càng động, rõ ràng như vậy. Cho nên biết tu rồi thì nên ít phải quấy. Ðiều đó người xưa có nói câu: "Ðiểm thiết biến thành kim ngọc dị. Khuyết nhơn từ khước thị phi nan", nghĩa là biến thiết trở thành vàng ngọc còn dễ hơn khuyên người ta bỏ phải quấy, điều đó khó lắm. Như vậy để biết bệnh của chúng sanh là bệnh phải quấy là càng mất tâm chớ không thể nào an ổn được.
Dịch
âm:
Nhị
do nhứt hữu,
Nhất
diệc mạc thủ.
Nhất
tâm bất sanh,
Vạn
pháp vô cữu.
Dịch
nghĩa:
Hai
do một có,
Một
cũng chớ giữ.
Một
tâm chẳng sanh,
Muôn
pháp không lỗi.
Giảng
giải:
Nhị
do nhứt hữu, nhất diệc mạc thủ: Hai do một mà có, cái một cũng chớ giữ. Chỗ này
là chỗ yếu tố, thường thường người ta nói hoặc là hai hoặc là một, nếu không
hai là một, không một là hai. Tại sao đạo Phật nói pháp môn bất nhị? Bất nhị là
không hai, không hai thì nói một cho rồi? Nhiều người cứ thắc mắc chỗ nầy. Ở
đây Tổ nói: hai là đối với một mà lập, bỏ hai giữ một là bệnh, phải buông hết
cả hai thứ.
Nhất
tâm bất sanh, vạn pháp vô cữu: một tâm không sanh thì muôn pháp không có lỗi.
Nếu bây giờ trước mắt mình nào là vàng ngọc, lụa là, sắc đẹp... chúng ta thấy
tất cả mà không dấy niệm gì, như vậy có lợi không? - Không - Nhiều người than:
ở đời nào là tài sắc, danh lợi quyến rũ thành ra khó tu. Quý vị thấy có quyến
rũ không? Sắc tài đâu có quyến rũ, tại mình chạy theo nó rồi đổ thừa nó quyến
rũ. Như cái đồng hồ trên bàn này có quyến rũ ai đâu? Tại mình dấy niệm tham,
lấy nó rồi đổ thừa nó quyến rũ mình. Như vậy không có gì quyến rũ mình hết, tại
tâm mình chạy theo. Người ta vì không có tinh thần trách nhiệm, nên cứ đổ thừa,
đổ thừa là căn bệnh vô trách nhiệm của con người. Ví dụ hai giờ đánh kiểng đi
công tác, có người nào đó nghe kiểng mà không chịu đi, đến hai giờ rưỡi hoặc ba
giờ, Tri sự kêu tại sao nghe đánh kiểng mà không chịu đi công tác? Người đó trả
lời tại cái này, tại cái kia. Tại đó là lý do để đổ thừa, luôn luôn có lý do
chớ không bao giờ nhận lỗi.
Chúng
ta hiểu như vậy thì muôn pháp đối với chúng ta không có lỗi lầm gì hết, lỗi lầm
là ở chỗ chúng ta dấy niệm.
Dịch
âm:
Vô
cữu vô pháp,
Bất
sanh bất tâm.
Năng
tùy cảnh diệt,
Cảnh
trục năng trầm.
Dịch
nghĩa:
Không
lỗi không pháp,
Chẳng
sanh chẳng tâm.
Năng
tùy cảnh diệt,
Cảnh
theo năng chìm.
Giảng
giải:
Chỗ
này hơi khó, Vô cữu vô pháp, bất sanh bất tâm: không lỗi không pháp, chẳng sanh
chẳng tâm. Vừa dấy niệm lên thì có pháp có tâm, dấy niệm lên thì muôn pháp có
lỗi, không dấy niệm thì không lỗi, không lỗi tức là không thấy pháp nào, không
thấy pháp tức nhiên tâm không sanh. Tâm không sanh nên không nói là tâm, có
sanh tức là dấy niệm lên nói là tâm tôi suy nghĩ, bây giờ không dấy niệm thì nói
tâm tôi nghĩ cái gì? Tức là không tâm nên nói: không lỗi không pháp, chẳng sanh
chẳng tâm.
Năng
tùy cảnh diệt, cảnh trục năng trầm: Năng là tâm, tâm theo cảnh diệt, cảnh theo
tâm chìm. Tâm không sanh tức cảnh cũng không có, tâm đối cảnh đó giả dối không
thật thì theo đó diệt. Nếu tâm diệt, cảnh cũng theo đó mất, tâm và cảnh không
rời. Vì vậy chúng ta tu có hai trường hợp: trường hợp thứ nhất nhìn lại mình
thấy rõ từng tâm niệm: mỗi niệm dấy lên biết là giả dối không theo; trường hợp
thứ hai nhìn ra ngoài thấy người, thấy tất cả đều là tướng duyên hợp hư giả,
không dính mắc. Nếu biết người giả, cảnh giả thì người cảnh tự mất; người cảnh
mất thì tâm cũng theo đó mất. Thấy nó tầm thường không quan trọng thì không
nghĩ, không nhớ, nếu thấy nó quan trọng thì nhớ nghĩ hoài. Ðó là tâm cảnh liên
hệ nhau như vậy.
Dịch
âm:
Cảnh
do năng cảnh,
Năng
do cảnh năng.
Dục
tri lưỡng đoạn,
Nguyện
thị nhất không.
Dịch
nghĩa:
Cảnh
bởi năng cảnh,
Năng
do cảnh năng.
Muốn
biết hai đoạn,
Nguyên
là một không.
Giảng
giải:
Cảnh
do năng cảnh: Cảnh do tâm mà thành cảnh. Ví dụ: cái đồng hồ là cảnh, tại sao
gọi là đồng hồ? Là do tâm mình đặt tên nên gọi là cái đồng hồ. Như vậy cảnh do
tâm mới thành cảnh. Còn Năng do cảnh năng là nhơn cái đồng hồ mình dấy niệm cái
đồng hồ. Vậy đồng hồ là cảnh, nhơn nơi cảnh mà tâm dấy khởi. Do thấy cái đồng
hồ rồi dấy niệm tốt xấu, cũ mới, tâm phân biệt có ra cũng do nơi cảnh mà có.
Nếu thấy rõ cảnh không thật thì tâm cũng theo đó mất. Hai câu: cảnh do năng
thành cảnh, năng do cảnh thành năng, tức là cảnh do tâm thành cảnh, tâm cũng do
năng thành tâm. Hai cái liên hệ nhau cảnh là tướng ở bên ngoài, tướng bên ngoài
không có phân biệt, không có tên riêng. Sở dĩ thành tên là do tâm mà có.
Dục
tri lưỡng đoạn, nguyện thị nhất không: Muốn biết hai đoạn tức là hai bên nguyen
là một cái không. Hai bên đều là giả, không thật.
Dịch
âm:
Nhất
không đồng lưỡng,
Tề
hàm vạn tượng.
Bất
kiến tinh thô,
Ninh
tâm kiệt đảng.
Dịch
nghĩa:
Một
không đồng hai,
Ðều
gồm vạn tượng.
Chẳng
thấy tinh thô,
Tâm
yêu ghét dứt.
Giảng
giải:
Nhất
không đồng lưỡng, tề hàm vạn tượng: Một cái không đồng với hai bên đều trùm cả
vạn tượng. Bởi vì cái không đó không thể nói là mấy được, không thể nói là hai,
mười hay một trăm cái không. Cái không đó chỉ có một. Tại sao lại bằng hai? Bởi
vì trong cái không đó tất cả hình tượng, những pháp đối đải đều nằm trong đó.
Cái không cũng như hư không, muôn pháp đều hiện hữu ở trong hư không: người,
thú, cây cỏ, núi sông... tất cả đều nằm trong hư không. Nó chỉ là một mà đồng
với hai, bởi vì mọi cái hai đều ở trong đó. Vì vậy cho nên nói nó bằng, nó trùm
cả muôn tượng không thua không kém.
Bất
kiến tinh thô: Tinh là đẹp, thô là xấu. Nếu không còn thấy cái này đẹp cái kia
xấu thì Ninh tâm kiệt đảng: đảng là bè đảng rối ren. Tâm sạch hết những lăng
xăng rối ren, nếu không thấy đẹp, không thấy xấu thì tâm sạch hết mọi loạn
tưởng lăng xăng.
Dịch
âm:
Ðại
đạo thể không,
Vô
dị vô nan.
Tiểu
kiến hồ nghi,
Chuyển
cấp chuyển trì.
Dịch
nghĩa:
Ðạo
lớn thể rỗng,
Không
dễ không khó.
Hiểu
cạn hồ nghi,
Chuyển
gấp chuyển trì.
Giảng
giải:
Ðại
đạo thể không, vô dị vô nan: Ở trước thì nói chí đạo, ở đây thì nói đại đạo.
Chí đạo với đại đạo là một, là tâm thể rỗng rang thênh thang đó vậy. Ðại đạo
không khó không dễ, khó dễ là hai bên mà đại đạo lia hai bên, nếu ở hai bên thì
mất đạo.
Tiểu
kiến hồ nghi, chuyển cấp chuyển trì: Người thấy thiển cận sanh ra nghi ngờ,
càng gấp thì càng chậm, bởi vì thấy cạn hẹp bị kẹt hai bên. Khi nghe nói đạo
rỗng rang thênh thang không kẹt hai bên bao trùm cả vạn tượng thì không thể tin
được. Vì vậy thêm nghi ngờ nên sanh ra nhanh hay chậm đều là lỗi chấp hai bên.
Dịch
âm:
Chấp
chi thất độ,
Thâm
nhập tà lộ.
Phóng
chi tự nhiên,
Thể
vô khứ trụ.
Dịch
nghĩa:
Chấp
đó mất chứng,
Ắt
vào đường tà.
Buông
đó tự nhiên,
Thể
chẳng khứ trụ.
Giảng
giải:
Chấp
chi thất độ, thâm nhập tà lộ: Hễ chấp thì mất độ lượng, ắt rơi vào đường tà. Dù
chấp có hay không cũng đều mất tâm thể thênh thang rỗng suốt. Mà người chấp có
hay không cũng rơi vào đường tà.
Phóng
chi tự nhiên, thể vô khứ trụ: Nếu buông tất cả thì thể chân thật không đi,
không trụ tự nhiên hiện tiền.
Dịch
âm:
Nhậm
tánh hiệp đạo,
Tiêu
dao tuyệt não.
Hệ
niệm quai chơn,
Hôn
trầm bất hảo.
Dịch
nghĩa:
Xứng
tánh hiệp đạo,
Tiêu
dao tuyệt não.
Buộc
niệm trái chơn,
Hôn
trầm chẳng tốt.
Giảng
giải:
Nhậm
tánh hiệp đạo, tiêu dao tuyệt não: Xứng với tánh thì hợp với đạo, tức là thể
tánh trùm khắp, nếu sống với thể trùm khắp đó thì hợp với đạo. Khi hợp với đạo
thì rong chơi thảnh thơi không rối loạn buồn rầu, hết phiền não.
Hệ
niệm quai chơn, hôn trầm bất hảo: Buộc niệm là trái với chơn thật, còn hôn trầm
thì không tốt. Ðó là hai thứ bệnh của người tu Thiền: hoặc hôn trầm hoặc buộc
niệm. Khi ngồi Thiền một lúc êm êm thì thấy mình đi chợ, làm việc này việc
kia... đó là hôn trầm. Nếu không như vậy thì chăm chăm kềm lại một chỗ. Tâm thể
không phải do kềm mà được. Chơn thể thênh thang trùm khắp, bấy giờ kềm cái gì?
Vậy mà người tu không biết hoặc kềm hoặc buông; kềm thì trái với chơn, buông
thì theo ngũ dục. Chỗ này thực là thiết yếu, chúng ta phải khéo không kềm cũng
không buông, nghĩa là Niệm dấy lên liền thấy, thấy mà không theo, bởi không
theo nên nó lặng lặng một cách tự nhiên mà tỉnh táo chớ không kềm. Có người
ngồi chăm chăm, nhíu chơn mày đó là kềm là bệnh, còn buông thì mắt nhắm lại
thiu thiu ngủ gục, ngồi một giờ đồng hồ cứ ngủ gục hoài. Như vậy buộc niệm cũng
không tột, mà hôn trầm cũng không được. Quý vị còn nhớ câu nói của Ngài Vĩnh
Gia Huyền Giác không? Tỉnh tỉnh lặng lặng phải Tỉnh tỉnh là không hôn trầm, còn
lặng lặng là không kềm, không hôn trầm mờ mịt mà tự nhiên lặng sáng. Kềm quá
thì đau đầu không hợp với đạo. Còn buông thì mờ mịt hôn trầm cũng không thấy
đạo gọi là ngồi trong hang quỷ. Như vậy mới nghe qua tưởng tu dễ lắm nhưng có
tu rồi mới thấy khó, đi đường giữa hợp với đạo. Cái khó của người tu là ở chỗ
đó.
Dịch
âm:
Bất
hảo lao thần,
Hà
dụng sơ thân.
Dục
thú nhứt thừa,
Vật
ố lục trần.
Dịch
nghĩa:
Chẳng
tốt nhọc thần,
Ðâu
cần sơ thân.
Muốn
đến nhất thừa,
Chớ
ghét sáu trần.
Giảng
giải:
Bất
hảo lao thần, hà dụng sơ thân: Hôn trầm là không tốt, dần dần lao tổn tinh thần
đâu có dùng sơ hay thân, không cần nghĩ đây là gần với đạo, kia là xa với đạo,
còn sơ thân là còn hai bên.
Dục
thú nhứt thừa, vật ố lục trần: Muốn tiến đến con đường nhứt thừa chớ có ghét
sáu trần. Tại sao vậy? Bởi vì người ta có hai quan niệm: một quan niệm thọ lạc,
một quan niệm yếm thế. Quan niệm thọ lạc cho rằng ta nên thụ hưởng sắm cho đủ
nhu cầu, ăn cho ngon, mặc cho đẹp, ở cho sang để được vui vẻ sung sướng. Còn
quan niệm yếm thế là chán ghét sáu trần, thấy sáu trần hại mình làm chướng ngại
đường tu, cho nên ghét nó coi nó như kẻ thù. Vậy hai quan niệm thụ hưởng và
chán ghét sáu trần cũng là bệnh. Theo sáu trần là bệnh đành rồi, mà ghét sáu
trần cũng là bệnh nữa. Quý vị thấy có người sợ danh lợi quyến rũ, người chạy
theo danh lợi đã đành rồi, người sợ danh lợi cứ chửi bới danh lợi hoài, chửi
bới danh lợi không phải là không theo danh lợi, vì ham danh lợi quá nên chửi
bới cho đỡ ham phải không? Hai cái đều là hiện tượng của bệnh hoạn, đừng theo,
đừng chửi mới là đúng. Vì vậy muốn tiến đến con đường nhất thừa thì chớ có ghét
sáu trần, vì sáu trần không có chướng ngại, tại tâm mình chạy theo cảnh nên
sanh ra chướng ngại.
Dịch
âm:
Lục
trần bất ố,
Hoàn
đồng chánh giác.
Trí
giả vô vi,
Ngu
nhơn tự phược.
Dịch
nghĩa:
Sáu
trần không ghét,
Hoàn
đồng chánh giác.
Kẻ
trí vô vi,
Người
ngu tự trói.
Giảng
giải:
Lục
trần bất ố, hoàn đồng chánh giác: Sáu trần không ghét xoay lại thì đồng với
chánh giác. Niệm ưa ghét là loạn động không hợp với đạo.
Trí
giả vô vi, ngu nhơn tự phược: Người trí đối với sáu trần thì tâm thảnh thơi,
không ưa ghét nên gọi là vô vi. Người ngu đối với sáu trần thì dính mắc, Người
trí thấy danh lợi coi như trò chơi, thản nhiên tự tại đều cho sáu trần là hại,
thấy nó là vô vi. Nếu thấy hại là tại mình ngu chạy theo nó, thấy chướng ngại
nên tự trói buộc. Như vậy sáu trần không lỗi, lỗi là tại tâm chúng ta mê.
Dịch
âm:
Pháp
vô vị pháp,
Vọng
tự ái trước.
Tương
tâm dụng tâm,
Khởi
thi đại thác.
Dịch
nghĩa:
Pháp
không pháp khác,
Tụ
vọng ái trước.
Ðem
tâm vọng tâm,
Há
chẳng lầm to.
Giảng
giải:
Pháp
vô vị pháp, vọng tự ái trước: Các pháp không khác do mình vọng niệm cho nên tự
ái trước. Tỉ dụ: đức Phật dạy tu Tịnh độ và tu Thiền, tuy niệm Phật khác với tu
Thiền song chỗ cứu cánh không khác. Người niệm Phật niệm đến chỗ vô niệm tức
nhiên nhập được nhất tâm chơn như, dùng một niệm để dẹp nhiều niệm, nhiều niệm
dứt thì một niệm cũng buông. Người tu Thiền cũng vậy, hoặc dùng sổ tức để buông
các niệm khác lần lần rồi sổ tức cũng buông, lặng lẽ thể nhập nhất tâm chơn
như. Như vậy tu Thiền đừng chê Tịnh độ cũng như theo Tịnh độ đừng chê Thiền.
Chỗ cứu cánh không khác, khác là do nơi phương tiện. Biết phương tiện là tạm
thời thì chấp trước, yêu ghét làm gì?
Tương
tâm dụng tâm, khởi thi đại thác: Ðem tâm dụng tâm đâu chẳng phải là lầm lớn.
Ðem tâm dụng tâm là thế nào? Ðem tâm này dẹp tâm kia, đem tâm kia dẹp tâm nọ,
như vậy là lầm lớn. Ví dụ: người có tâm thích danh, do có tâm thích danh nên
dùng tâm thích danh đó khởi niêm ghét danh. Nói danh là xấu, chửi bới chê bai
nó, vậy là dùng tâm này để bỏ tâm kia, đó là lầm lạn lớn. Bởi vì nó không thật
mà chửi bới nó, dẹp nó để làm gì, biết nó không thật là đủ.
Dịch
âm:
Dịch
nghĩa:
Mê
sanh tịch loạn,
Ngộ
vô bảo ác.
Nhứt
thiết nhị biên,
Vọng
tự châm chước.
Mê
sanh tịch loạn,
Ngộ
không tốt xấu.
Tất
cả hai bên,
Do
vọng châm trước.
Giảng
giải:
Mê
sanh tịch loạn, ngộ vô bảo ác: Mê sanh ra phân biệt chấp trước cho đây là loạn
kia là định. Người ngộ không thấy có tốt xấu, bởi chúng ta mê nên thấy hai bên,
phân biệt chọn lựa đây là động, kia là tịnh, bỏ động ưa tịnh, tìm kiếm lăng
xăng. Ngộ rồi thì không còn thấy tốt xấu hai bên nữa.
Nhứt
thiết nhị biên, vọng tự châm chước: Châm chước giống như giảng trạch ở trước,
nghĩa là thêm bớt. Tất cả cái thấy hai bên đều do giản trạch thêm bớt mà ra.
Thí dụ: cho cái này là hay, cái kia là dở, cái này nói tốt, cái kia nói xấu
chính do phân biệt mà ra.
Dịch
âm:
Mộng
huyễn không hoa,
Hà
lao bả tróc.
Ðắc
thất thị phi,
Nhứt
thời phóng khước.
Dịch
nghĩa:
Mộng
huyễn không hoa,
Ðâu
nhọc nắm bắt.
Ðược
mất, phải quấy,
Một
lúc buông bỏ.
Giảng
giải:
Mộng
huyễn không hoa, hà lao bả tróc: Tất cả các pháp đều là hoa đốm giữa hư không,
nhọc gì phải nắm bắt. Người trí đối với sáu trần không dính mắc là vì họ thấy
nó như huyễn hóa. Người mê thấy nó thật, bám chặt, chấp giữ nên nhọc nhằn khổ
đau.
Ðắc
thất thị phi, nhứt thời phóng khước: Ðược mất, phải quấy một lúc bỏ hết, người
nào đối với được mất phải quấy, một lúc ném hết thì được an ổn. Sở dĩ chúng ta
bất an là tại thấy đắc thất, thị phi... Ví dụ; đi chợ bị mất một trăm đồng, tối
ngồi Thiền, nghĩ không biết bị mất lúc nào, ở đâu, ngồi trên xe lam đi vào chợ,
cứ nhớ hoài, đến hết giờ ngồi Thiền cũng một chuyện mất tiền. Lại như làm việc
gì cái lợi tới ngoài sức mình nghĩ, rồi cũng không yên tâm tìm lý do tạisao
được nhiều như vậy? Nhờ phước sẵn có hay do tài khéo tính toán? Cho nên mất
cũng làm tâm loạn, được cũng loạn tâm. Ðược mất cũng đều làm mất tâm hết. Phải
quấy cũng vậy, nếu đối với người, mình xử sự hết sức là phải, hết sức tử tế, mà
họ lại ăn ở tệ bạc với mình. Khi nghĩ mình phải, họ quấy lúc đó có yên không?
Cũng lại bất an. Hoặc giả có ai mắng mình làm như thế là ngu, là quấy, lúc đó
mình có an không? Vừa thấy thị phi, đắc thất liền bất an. Bây giờ ném quách nó
đi thì tự nhiên an ổn.
Dịch
âm:
Nhãn
nhược bất thùy,
Chư
mộng tự trừ.
Tâm
nhược bất dị,
Vạn
pháp nhất như.
Dịch
nghĩa:
Mắt
nếu chẳng ngủ,
Các
mộng tự trừ.
Tâm
nếu chẳng khác,
Muôn
pháp nhất như.
Giảng giải:
Nhãn nhược bất thùy, chư mộng tự trừ: Mắt nếu không ngử thì mộng tự dứt. Tâm nhược bất dị, vạn pháp nhất như: Tâm nếu chẳng khác thì muôn pháp nhất như, thật rõ ràng có ai mở mắt không ngủ mà nằm mộng (nằm chiêm bao) không? Sở dĩ mộng là vì nhắm mắt ngủ, bởi ngủ nên có mộng, khi thức dậy thì mộng liền hết. Cũng như vậy, tâm nếu không có niệm này nọ thì tất cả pháp đều nhất như, thấy cáigì ra cái nấy. Ví dụ: thấy cái bình màu xanh đúng là màu xanh, cái áo màu vàng đúng là màu vàng, không thêm một niệm nào, thì xanh đâu thành vàng, vàng đâu hóa xanh. Tuy nhiên tướng xanh vàng vẫn thấy, nhưng không dấy niệm nên muôn pháp nhất như. Rõ ràng như vậy.
Dịch
âm:
Nhất
như thể huyền,
Ngột
nhi vọng duyên.
Vạn
pháp tề quán,
Qui
phục tự nhiên.
Dịch
nghĩa:
Nhất
như thể huyền,
Ngây
ngất quên duyên.
Muôn
pháp đồng quán,
Trở
lại tự nhiên.
Giảng
giải:
Nhất
như thể huyền, ngột nhi vọng duyên: Nếu được nhất như rồi thì thể chất là nhiệm
mầu huyền diệu, rồi bỗng quên hết các duyên.
Vạn
pháp tề quán, qui phục tự nhiên: Ðồng quán muôn pháp để trở về tự nhiên. Thấy
tất cả pháp như nhiên không có sai biệt. Vì tâm nhất như vậy nên muôn pháp cũng
nhất như.
Dịch
âm:
Dẩn
kỳ sở dĩ,
Bất
khả phương tỷ.
Dịch
nghĩa:
Sạch
lý do kia,
Không
thể so sánh.
Chỉ
động vô động,
Ðộng
chỉ vô chỉ.
Dừng
động không động,
Ðộng
dừng không dừng.
Giảng
giải:
Dẫn
kỳ sở dĩ, bất khả phương tỷ: Sạch hết mọi lý do, thì không còn so sánh, thường
thường đối với các pháp, chúng ta khởi niệm phân biệt, khi phân biệt thì có lý
do tại sao cái này đẹp, cái kia xấu, đưa tới chỗ so sánh, hơn thua, phải quấy.
Cho nên dứt được tâm tìm lý do thì không còn điều gì có thể so sánh được nữa.
Chỉ
động vô động, động chỉ vô chỉ: Dừng động mà không động, động đã dừng thì không
còn dừng nữa. Tại sao vậy? Vì biết rõ tâm không dấy niệm đối với các pháp,
không dấy niệm tức nhiên dừng động, đó mới là thật không động. Ðộng dừng mà
không có niệm dừng để kềm nó, mới là dừng chân thật. Người tu không biết cứ đè
vọng tưởng xuống, thì động càng thêm động. Ở đây, tâm đối cảnh biết rõ mà không
khởi niệm khác, bởi không khởi niệm khác nên không động. Khi động dừng cũng
không khởi niệm dừng để kềm, đó mới là dừng chân thật.
Dịch
âm:
Lưỡng
ký bất thành,
Nhứt
hà hữu chỉ.
Cứu
cánh cùng cực,
Bất
tồn qui tắc.
Dịch
nghĩa:
Hai
đã chẳng thành,
Một
làm gì có.
Rốt
ráo cùng cực,
Chẳng
còn qui tắc.
Giảng
giải:
Lưỡng
ký bất thành, nhứt hà hữu chỉ: Cái hai đã chẳng thành thì một nào có được. Cứu
cánh cùng cực, bất tồn quỉ tắc: Rốt ráo cùng tột không còn qui tắc, khuôn phép.
Khi tâm không dấy niệm phân biệt cảnh, thì hai không còn, cái một cũng mất
luôn, chỗ đó là cứu cánh, cùng tột, tự tại bao dung, thênh thang không ngằn mé,
không mẫu mực.
Dịch
âm:
Khế
tâm bình đẳng,
Sở
tác câu tức.
Hồ
nghi tận tịnh,
Chánh
tín điều trực.
Dịch
nghĩa:
Hợp
tâm bình đẳng,
Sở
tác đều tức.
Hết
sạch hồ nghi,
Chánh
tính điều trực.
Giảng giải:
Khế tâm bình đẳng, sở tác câu tức: Khi đó mới khế hợp với tâm bình đẳng, các việc làm đều dứt bặt thì Hồ nghi tận tịnh, chánh tín điều trực: mọi sự nghi ngờ trong tâm đều sạch, ấy mới là lòng tin chân chánh, ngay thẳng, không cong vạy, điên cuồng như trước, gọi là Tín tâm.
Dịch
âm:
Nhất
thiết bất lưu,
Vô
khả ký ức.
Hư
minh tự chiếu,
Bất
lao tâm lực.
Dịch
nghĩa:
Tất
cả chẳng lưu,
Không
nên ghi nhớ.
Rỗng
rang tự chiếu,
Chẳng
nhọc tâm lực.
Giảng
giải:
Nhất
thiết bất lưu, vô khả ký ức: Tất cả cảnh không để tâm thì chẳng ghi nhớ. Bởi vì
đã sống được với nhất như thì không còn chứa chấp điều gì, nên đối với tất cả
cảnh đều không giữ, cũng không ghi nhớ.
Hư
minh tự chiếu, bất lao tâm lực: Tâm rỗng rang tự chiếu không nhọc đến sức lực.
Khi ấy không còn dụng công để quán chiếu mà rỗng rang tự chiếu, tự sáng chỗ này
rất rõ. Chúng ta luôn luôn trái với đạo mà không biết, sống với đạo thì phải
buông để tâm rỗng rang sáng suốt. Càng không có niệm, không có những ghi nhớ
thì càng thảnh thơi. Người thế gian đâu chịu buông bỏ ký ức, cứ ghi nhớ, cái gì
cũng đồ cho đậm, nhớ cho sâu thành ra rối loạn, đau khổ. Vì nhớ nhiều là điên
đảo nhiều, mỗi khi ngồi nhớ người này xử sự với mình tốt, người kia đối xử với
mình xấu... Như vậy là loạn tâm, loạn tưởng cả ngày không bao giờ thảnh thơi
cũng tại ghi nhớ. Ghi nhớ gốc từ mê lầm mà ra. Chúng ta hồi nhỏ thấy chuyện gì
hay hay xảy ra thì lo ghi, làm được việc gì tốt cứ nhớ hoài, đi du lịch gặp cảnh
đẹp sợ quên thì chụp hình, chụp ảnh để lâu lâu dở ra xem, chứa trong đầu chưa
đủ, lại còn ghi không biết bao nhiêu thứ chuyện. Quá nhiều chuyện cho nên tâm
đầy nghẹt, do đó không sáng suốt. Bây giờ biết tu thì đừng ghi nhớ, chuyện qua
rồi thì thôi, ghi làm gì cho mệt. Nếu tâm không ghi nhớ thì rỗng rang tự chiếu,
tự soi nào có nhọc công sức gì.
Dịch
âm:
Phi
tư lương xứ,
Thức
tình nan trắc.
Chơn
như pháp giới,
Vô
tha vô tự.
Dịch
nghĩa:
Chẳng
phải chỗ suy,
Thức
tỉnh khôn dò.
Chân
như pháp giới,
Vô
tha vô tự.
Giảng
giải:
Phi
tư lương xứ, thức tình nan trắc: là không phải chỗ để suy nghĩ, thức tình cũng
không thể lường tới đó được. Chỗ đó là chỗ nào? Là chỗ hư mình tịch chiếu.
Người nào nói tôi dùng tâm để duy nghĩ, để tìm đạo lý, tìm ngàn đời cũng không
được. Chỗ đó là chỗ rỗng rang tự chiếu không phải do vọng tự tìm ra, càng dùng
tâm thức để phân biệt, tìm kiếm lại càng không thể tới được. Bỏ ý và thức thì
tự nhiên nó hiện bày. Ngài Qui Sơn có một câu thoại đầu để dạy đệ tử rằng:
"Ông nên tư lương chỗ không thể tư lương", ông nên suy nghĩ chỗ không
nên suy nghĩ. Chỗ không suy nghĩ làm sao suy nghĩ, Ngài dạy đệ tử buông hết thì
tới chỗ hư minh tịch chiếu. Chúng ta nghe vậy không biết, bóp trán hỏi: làm sao
suy nghĩ chỗ không suy nghĩ được. Ðó là câu thoại đầu khéo.
Chơn
như pháp giới, vô tha vô tự: Chính chỗ tự chiếu gọi là chơn như, cũng gọi là
pháp giới không còn thấy có ta, người, không còn đối đải ta người, đó mới là
chỗ chơn như pháp giới. Quý vị còn nhớ trong kinh Kim Cang, Phật dạy chúng ta bỏ
bốn tướng Ngả, Nhơn, Chúng sanh, Thọ giả không? Bốn tướng ấy đều nằm trong tha
và tự ở đây. Buông được bốn tướng đó mới có thể nhập được chơn như pháp giới.
Dịch
âm:
Yếu
cấp tương ưng,
Duy
ngôn bất nhị.
Bất
nhị giai đồng,
Vô
bất bao dung.
Dịch
nghĩa:
Cần
gấp tương ưng,
Chỉ
nói bất nhị.
Bất
nhị đều đồng,
Chẳng
gì chẳng dung.
Giảng
giải:
Yếu
cấp tương ưng, duy ngôn bất nhị: Cấp thiết để tương ưng chỉ nói là bất nhị.
Muốn gấp rút khế hợp chơn như pháp giới thì phải sống với cái bất nhị, sống không
hai mới vào được chỗ đó, còn có hai thì không bao giờ thể nhập được.
Bất
nhị giai đồng, vô bất bao dung: Chỗ không hai đều đồng, không có cái gì mà nó
không bao trùm khắp.
Dịch
âm:
Thập
phương trí giả,
Giai
nhập thử tông.
Tông
phi xúc diên,
Dịch
nghĩa:
Kẻ
trí mười phương,
Ðều
vào tông này.
Tông
chẳng ngắn dài,
Nhứt
niệm vạn niên.
Một
niệm muôn năm.
Giảng
giải:
Thập
phương trí giả, giai nhập thử tông: Người trí mười phương đều vào tông này.
Tông phi xúc diên, nhứt niệm vạn niên: Tông này không phải kéo rút ngắn lại,
không phải kèo dài thêm ra, một niệm là muôn năm, muôn năm là một niệm. Ai biết
một niệm là muôn năm? Thường thường trong đạo hay dùng chữ Nhứt niệm, là một
niệm. Một niệm là thời gian rất ngắn, muôn năm là thời gian rất dài. Thời gian
không thiệt thì dài ngắn làm gì có thiệt. Thấy rõ thời gian không thiệt thì một
niệm đồng với muôn năm, chỉ có nhứt niệm chơn như. Tâm này không ngắn cũng
không dài, ngắn dài chỉ cho thời gian, bởi thời gian nên một niệm rất ngắn,
muôn năm rất dài mà thể nhập được chân như thì đâu có niệm ngắn dài.
Dịch
âm:
Vô
tại bất tại,
Thập
phương mục tiền.
Cực
tiểu đồng đại,
Vọng
tuyệt cảnh giới.
Dịch
nghĩa:
Không
còn chẳng còn,
Mười
phương trước mắt.
Rất
nhỏ đồng lớn,
Quên
hẳn cảnh giới.
Giảng
giải:
Vô
tại bất tại, thập phương mục tiền: Vô tại là không hiện hữu, bất tại là chẳng
phải do hiện hữu. Vì chân như không thuộc về thời gian, đối với không gian nó
không có tướng mạo, nên không có cái hiện tại mà chẳng phải hiện hữu. Tôi
thường nói với quý vị: Cái thấy ở trước mắt, nhưng sự thật có ở trước mắt
không? Nếu ở trước mắt thì phải thấy. Quý vị có thấy nó không? Nếu không tại
sao có thấy? Cái thấy dường như không phải hiện tại mà nó hiện tại. Nếu buông
tất cả thì nó sờ sờ trước mắt, chớ không phải không có. Tâm niệm lăng xăng lặng
rồi, cái như như không có gián cách gần xa, cho nên nói mười phương đều ở trước
mắt.
Cực
tiểu đồng đại, vọng tuyệt cảnh giới: Cái rất nhỏ đồng với cái rất lớn, quên hết
cảnh giới là nói về không gian, quý vị nhớ trong Kinh có câu: "Trên đầu
mảy lông có thể hàm chứa cả mười phương thế giới". Trên đầu mảy lông làm
sao trùm cả mười phương thế giới? Hay nói: "Núi Tu Di làm sao nhét trong
hột cải?". Bởi vì đầu mảy lông, mười phương thế giới, hạt cải hay núi Tu Di
đều là "Không". Ðể thấy rằng hiện tượng trong không gian này lớn nhỏ
với con mắt của người ngộ đạo thì tướng mạo lớn nhỏ đều là giả tướng duyên hợp,
đã là giả tướng duyên hợp thì tự tánh nó là không, tướng không ấy bình đẳng
không có lớn nhỏ.
Dịch
âm:
Cực
đại đồng tiểu,
Bất
kiến biên biểu.
Hữu
tức thị vô,
Vô
tức thị hữu.
Dịch
nghĩa:
Rất
lớn đồng nhỏ,
Chẳng
thấy biên giới.
Có
chính là không,
Không
chính là có.
Giảng
giải:
Cực
đại đồng tiểu, bất kiến biên biểu: Cái rất lớn đồng với cái rất nhỏ, nên thấy
không bờ mé tiêu biểu của nó. Trong tánh không của các pháp lớn và nhỏ đều
không khác nhau nên không có ranh giới lớn nhỏ.
Hữu
tức thị vô, vô tức thị hữu: Có tức là không, không tức là có. Theo tinh thần
Bát nhã tại saocó tức là không, không tức là có? Bởi vì ngay nơi Có thể tánh nó
là không, do duyên hợp giả có nên nó là Không, Không và Có không rời nhau. Ngay
nơi Không là có, ngay nơi Có là không, đâu còn hai bên nữa. Chữ Tức chỉ cho
không còn kẹt ở hai bên, vừa lệch hai bên là đã sai rồi. Vì vậy cho nên tới chỗ
thấy đạo của các Tổ đều dùng chữ Tức. Phiền não tức Bồ đề, sanh tử tức Niết
bàn... để chúng ta không còn bị kẹt hai bên.
Dịch
âm:
Nhược
bất như thử,
Tất
bất tu thủ.
Nhứt
tức nhứt thiết,
Nhứt
thiết tức nhứt.
Dịch
nghĩa:
Ví
chẳng như thế,
Quyết
không cần giữ.
Một
tức tất cả,
Tất
cả tức một.
Giảng
giải:
Nhược
bất như thử, tất bất tu thủ: Nếu không như thế ắt không nên giữ, nghĩa là ngay
nơi có thấy là không, ngay nơi không thấy là có, Không nên chấp giữ điều đó vì
còn thấy hai. Phải thấy tột các pháp không hai, chỗ không hai đó mới là chân
thật.
Nhứt tức nhứt thiết, nhứt thiết tức nhứt: một tức là tất cả, tất cả tức là một, điều này làm sao mình biết được. Tất cả là một, bởi vì trong mỗi người chúng ta đều có cái thân hoặc lớn hoặc nhỏ, hoặc nam nữ khác nhau. Bởi khác nhau nên thành nhiều người, nhiều người đó là tất cả. Nhưng tất cả nhiều người đó đúng về Thiền mà nói là do tứ đại kết thành. Biết thân này do tứ đại kết hợp thành thì thân người cũng do tứ đại hợp thành. Vậy một và tất cả đâu có khác. Như vậy trong Một đã hàm chứa Tất Cả, đó là nói về hình thức vật chất. Nói về tâm cũng vậy, trên vọng tưởng của chúng ta mỗi người có muôn ngàn thứ vọng tưởng sai biệt, nhưng trên cái Tâm thể lặng lẽ thì nó không khác. Vì vậy cho nên trên Tâm thể đó đồng là Một tùy duyên thì hiện ra Tất Cả. Ðứng về Thể thì nói là Một, nhưng đúng về Dụng thì nói là Tất Cả. Thể và Dụng không rời nhau. Một tức Tất Cả là từ Thể nói Dụng. Tất cả tức Một là tự Dụng nói Thể, không khác nhau.
Ðản
năng như thị,
Hà
tự bất tất.
Tín
tâm bất nhị,
Bất
nhị tín tâm.
Dịch
nghĩa:
Chỉ
được như thế,
Lo
gì chẳng xong.
Tín
tâm bất nhị,
Bất
nhị tín tâm.
Ðản
năng nhu thị, hà tự bất tất: Chỉ được như thế, nào lo chẳng xong. Ðược như thế
là thấy tất cả tướng Dụng có sai biệt nhưng Thể thì không khác nhau. Tướng Dụng
không rời Thể, thể không rời tướng Dụng. Tức là có chẳng rời không, không chẳng
rời có. Chúng ta thấy tất cả pháp là không hai, lo gì chẳng xong, nhất định sẽ
viên mãn Bồ đề.
Tín
tâm bất nhị, bất nhị tín tâm: Tín tâm mình là chỗ không hai, tin được chỗ không
hai đó là tin tâm mình. Tổ Tăng Xán và Tổ Huệ Năng dạy không khác. Bài pháp đầu
tiên của Lục Tổ nói với Ngài Ðạo Minh là: "Không nghĩ thiện, không nghĩ
ác, cái gì là Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh". Bản lai diện mục là
tâm vậy. Muốn thấy được bản lai diện mục thì đừng nghĩ thiện ác, nghĩ thiện ác
là hai. Nếu thấy hai thì không thấy được bản lai diện mục. Mình tin được tâm
mình là không mắc kẹt hai bên, không mắc kẹt hai bên tức là tin được tâm. Người
còn suy nghĩ phân biệt là mất tâm. buông được hai bên là nhận được tín tâm. Quý
vị có tin tâm mình chưa? Có tâm mà không chịu tin vì bận sống với hai bên. Nói
không hai mà suy nghĩ thì hai phải không? Cho nên mất tâm mà chẳng hay. Bây giờ
muốn tin tâm, thì phải buông hai bên mới gọi là Tín Tâm.
Dịch
âm:
Ngôn
ngữ đạo loạn,
Phi
cổ lai kim.
Dịch
nghĩa:
Ðường
ngôn ngữ dứt,
Chẳng
phải xưa nay.
Giảng giải:
Ngôn ngữ đạo loạn, phi cổ lai kim: Con đường ngôn ngữ bặt dứt không phải là xưa nay. Tới chổ Chí đạo không còn nói xưa nay nữa, bao nhiêu ngôn ngữ đều không thể bàn luận tới được. Vừa bàn luận tới thì đã rơi vào hai. Bặt ngôn ngữ, dứt được cái không hai mới là tâm mình. Chúng ta đang tu hành ai cũng đều nghĩ tu là tu tâm. Vậy chúng ta tu tâm nào? Tâm thiện hay tâm ác? Vừa nghĩ thiện, nó mất tiêu, vửa nghĩ ác, nó cũng mất tiêu. Vậy có lắm người nói: thôi tôi không đi chùa, ở nhà tu tâm được rồi. Tâm là cái gì để mà tu? Nếu nghĩ lành, nghĩ dữ là tâm mình thì thử tìm xem coi nó ra sao? Vừa nhìn lại là nó mất hình dáng, nó không thật, cái giả dối làm sao mà tu, chẳng qua là lời nói suông không thực. Ở đây nói tu tâm là buông hết những niệm thiện ác, chỉ còn một tâm thể nhất như, cái đó mới thật tâm mình. Biết được như vậy, thấy được như vậy, mới gọi là Tin tâm mình. Người tu mà không tin tâm mình thì thất tín, thất tín thì không tu được. Tu là trở về cái chơn thật muôn đời, chớ nghĩ tưởng lăng xăng tự nó cuồng loạn là giả thì tu cái gì? Cho nên ở đây Tổ nhắc chúng ta tin chắc nơi mình có Tân chơn thật là phải buộng chấp hai bên.
3. Kết Luận
Bài
này bốn câu đầu, Ngài dạy buông yêu ghét là hai bên. Rồi toàn bộ bài TÍN TÂM
MINH đều bảo phải bỏ chấp hai mới là tín tâm, chạy theo hai bên thì không phải
tín tâm
Tóm lại, loài người cho đến loài vật từ những việc đối đải trong thế gian đều nằm ở hai bên. Vì vậy cho nên bao nhiêu niệm điên đảo nổi lên, thấy nam thì nhớ nữ, thấy tốt thì nhớ xấu, thấy phải nhớ quấy. Như vậy điên đảo cuồng loạn hoài cũng tại hai bên đó. Dừng được hai bên thì tâm vọng lặng lẽ, thể nhất như rỗng sáng. Ðó là cội nguồn của sự tu hành. Tín tâm không phải là tin tâm thiện của mình, tín tâm là tin được cái TÂM CHÂN THẬT KHÔNG HAI, nhớ rõ như vậy.
Gởi bởi: tkl