Trước khi giáng trần, thái tử Tất-đạt-đa (Siddhattha) đã trải qua nhiều kiếp tu hành chứng quả vị Bồ-tát, hiệu là Hộ Minh, an trú tại cung trời Đâu-suất. Theo lời thỉnh cầu của Phạm Thiên và Tứ Đại Thiên Vương, Bồ-tát giáng trần.
2. Hoàng hậu Ma-da (Sirimahāmāyā) nằm mộng thấy một con voi trắng 6 ngà từ núi vàng, núi bạc đến và mang cho bà một cành hoa sen, từ đó bà mang thai.
3. Trên đường về quê mẹ, Hoàng hậu Ma-da ghé qua vườn Lâm-tì-ni và hạ sanh Thái tử ở đó, nhằm vào ngày trăng tròn tháng 4 âm lịch, năm 624 trước Tây lịch. Vừa sanh ra thái tử liền đi 7 bước, dưới mỗi bước đi là 7 đóa sen nâng gót chân Ngài , rồi Thái Tử dừng lại tuyên bố rằng: “Ta là bậc chí tôn cao quý nhất trên đời”.
5. Tại buổi lễ Hạ điền, trong lúc mọi người mải mê tham dự lễ và vui chơi, Thái Tử an nhiên thiền định dưới gốc một đại thụ. Trước cảnh tượng uy nghiêm ấy, vua cha và mọi người đã đảnh lễ Thái Tử.
Một dịp, Thái Tử và Xa-nặc dạo chơi nơi 4 cửa thành và tận mắt chứng kiến 4 cảnh tượng: người già, người bệnh, người chết và một đạo sĩ tướng mạo đoan nghiêm.
Lên 16 tuổi, vâng lệnh phụ vương, Thái tử kết hôn với Công chúa Da-du-đà-la. Đôi vợ chồng sống hạnh phúc 13 năm trong 3 lâu đài lộng lẫy do vua cha xây cho và sanh được một con trai tên là La-hầu-la.
9. Vào một đêm khuya, sau buổi dạ tiệc linh đình của hoàng cung, Thái Tử cảm thấy nhàm chán cuộc sống hưởng thụ và vượt thành xuất gia, bỏ lại vợ con đang chìm sâu trong giấc ngủ.
10. Thái tử cỡi con ngựa Kiền-trắc dẫn theo người hầu cận Xa-nặc vượt dòng sông Anoma trong đêm tối.
Qua khỏi dòng sông, Thái Tử cởi bỏ hoàng bào, dùng kiếm cắt tóc và bảo Xa-nặc cỡi ngựa về báo lại phụ vương, một thân một mình hướng về Hy-mã-lạp sơn quyết chí tìm đạo cứu khổ chúng sanh.
12. Sáu năm khổ hạnh rừng già, thân thể chỉ còn da bọc xương mà ý đạo vẫn chưa sáng. Đến khi nghe Trời Đế-thích hát về cách lên dây đàn, Thái Tử tỉnh ngộ ra và từ bỏ con đường khổ hạnh ép xác để thực hành Trung đạo.
Mục nữ Sujātā dâng sửa cúng dường, Thái Tử uống xong thấy tinh thần minh mẫn. Ngài ném bát xuống sông Ni-liên-thiền và nguyện rằng: “Nếu ta có thể chứng đắc Phật quả thì khi ta ném cái bát này xuống sông, nó trôi ngược dòng nước”. Nói xong Ngài ném cái bát xuống dòng sông, cái bát nổi lên mặt nước và trôi ngược dòng.
Ba nàng công chúa của Ma vương dùng sắc đẹp và những điệu múa lả lơi để quyến rũ đức Phật, nhưng bọn chúng đều thất bại.
Ma vương cùng với ma binh vây quanh quấy phá dụ dỗ, nhưng Thái Tử vẫn không nao núng, một lòng an trú trong thiền định. Ma vương cảm phục và cúi đầu đảnh lễ.
Vào một ngày trăng tròn tháng 12 Âm lịch, khi sao mai vừa mọc, Thái Tử giác ngộ bốn chân lý: khổ, tập, diệt, đạo và chứng quả Vô Thượng Bồ đề, thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni.
Vì lợi ích cho chư thiên và nhân loại, đức Phật đã nhận lời thỉnh cầu của Phạm Thiên quyết định rời cội Bồ-đề lên đường hóa độ.
Trước tiên, Ngài đến Lộc Uyển tìm 5 anh em Kiều Trần Như là những bạn đồng tu khổ hạnh trước kia để chuyển Bánh Xe Pháp và thuyết bài pháp đầu tiên: Tứ Diệu Đế.
Vào ngày rằm tháng sáu, đức Phật giáo giới cho 1.250 vị Thiện lai Tỳ Kheo: “Không làm các điều ác, hãy làm các điều lành, giữ tâm ý trong sạch, đó là lời chư Phật dạy”.