43. Tương Ưng Mã, Kinh 1298-1307

43. TƯƠNG ƯNG MÃ [1]

KINH 1298. TAM CHỦNG ĐIỀU MÃ [2]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Thế gian có ba loại ngựa để điều phục. [3] Những gì là ba? Có loại thì nhanh nhạy hoàn toàn, nhưng sắc không hoàn toàn, hình thể không đầy đủ; có loại ngựa thì sắc hoàn toàn, nhanh nhạy hoàn toàn, nhưng hình thể không đầy đủ; có loại ngựa thì nhanh nhạy hoàn toàn, sắc hoàn toàn, và hình thể đầy đủ. Cũng vậy, có ba dạng hạng người điều phục được. Những gì là ba? Có hạng người [232c] bén nhạy hoàn toàn, nhưng sắc không hoàn toàn, hình thể không đầy đủ; có hạng người bén nhạy hoàn toàn, sắc hoàn toàn, nhưng hình thể không đầy đủ; có hạng người bén nhạy hoàn toàn, sắc hoàn toàn, và hình thể cũng đầy đủ.

“Này Tỳ-kheo, thế nào là hạng người bén nhạy hoàn toàn, nhưng sắc không toàn vẹn, hình thể không đầy đủ, không điều phục được? Hạng người biết như thật rằng ‘Đây là Khổ,’ ‘Đây là Khổ tập,’ ‘Đây là Khổ diệt,’ ‘Đây là Khổ diệt đạo.’ Quán như vậy mà đoạn tận ba kết: thân kiến, giới thủ, và nghi. Đoạn tận ba kết này, chứng đắc Tu-đà-hoàn, không còn bị rơi vào pháp đường dữ, quyết định hướng đến Chánh giác; chỉ còn bảy lần qua lại trời người, rốt ráo thoát khổ. Đó gọi là bén nhạy hoàn toàn. Thế nào là sắc không đầy đủ? Nếu có ai hỏi người ấy về Luận, Luật mà người ấy không thể dùng lời nói, ý nghĩa đầy đủ để theo đó thứ tự trình bày đầy đủ, đó gọi là sắc không đầy đủ. Thế nào là hình thể không đầy đủ? Người ấy chẳng có đức lớn, tiếng tăm, để cảm báo đến những thứ như: y phục, đồ ăn thức uống, giường nằm, thuốc men. Đó gọi là người bén nhạy hoàn toàn, nhưng sắc không đầy đủ, và hình thể không đầy đủ.

“Thế nào gọi là hạng người bén nhạy hoàn toàn, sắc đầy đủ, nhưng hình thể không đầy đủ? Hạng người biết như thật rằng ‘Đây là Khổ,’ ‘Đây là Khổ tập,’ ‘Đây là Khổ diệt,’ ‘Đây là Khổ diệt đạo.’... cho đến rốt ráo thoát khổ, đó gọi là bén nhạy hoàn toàn. Thế nào là sắc đầy đủ? Nếu có người hỏi người ấy về Luận, Luật... cho đến có thể vì họ mà giải nói, đó gọi là sắc đầy đủ. Thế nào gọi là hình thể không đầy đủ? Người ấy chẳng có đức lớn, tiếng tăm, nên không thể cảm báo đến y phục, đồ ăn thức uống, ngọa cụ, thuốc men, đó gọi là người bén nhạy hoàn toàn, sắc đầy đủ, nhưng hình thể không đầy đủ.

“Thế nào là hạng người bén nhạy hoàn toàn, sắc đầy đủ, hình thể đầy đủ? Hạng người biết như thật rằng ‘Đây là Khổ,’ ‘Đây là Khổ tập,’ ‘Đây là Khổ diệt,’ ‘Đây là Khổ diệt đạo.’... cho đến rốt ráo thoát khổ, đó gọi là nhạy bén hoàn toàn. Thế nào là sắc đầy đủ? Nếu có ai hỏi người ấy về Luận, Luật,... cho đến có thể giải nói, đó gọi là sắc đầy đủ. Những gì là hình thể đầy đủ? Người ấy có đức lớn, tiếng tăm,... cho đến đầ ngọa cụ, thuốc men, đó gọi là hình thể đầy đủ. Đó gọi là hạng người bén nhạy hoàn toàn, sắc đầy đủ, hình thể đầy đủ.”

Sau khi Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1299. THUẬN LƯƠNG MÃ [4]

Tôi nghe như vẩy:

Một thới, Phật  ở trong vườn Trúc Ca-lan-đà, thành Vương Xá. [233a] Bấy giờ đức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Thế gian có ba loại ngựa tốt. Những gì là ba? Có loại ngựa nhanh nhạy đầy đủ, nhưng sắc chẳng đầy đủ, hình thể chẳng đầy đủ; có loại ngựa nhanh nhạy đầy đủ, sắc đầy đủ, nhưng hình thề không đầy đủ; có loại ngựa nhanh nhạy đầy đủ, sắc đầy đủ, hình thể đầy đủ. Ở trong Chánh pháp luật cũng có ba hàng thiện nam. Những gì là ba? Có hàng thiện nam nhanh nhạy đầy đủ, nhưng sắc thì không đầy đủ, hình thể chẳng đầy đủ; có hàng thiện nam nhanh nhạy đầy đủ, sắc đầy đủ, nhưng hình thể không đầy đủ; có hàng thiện nam nhanh nhạy đầy đủ, sắc đầy đủ, hình thể đầy đủ.

“Thế nào là hàng thiện nam nhanh mhạy đầy đủ, nhưng sắc không đầy đủ, hình thể không đầy đủ? Là hàng thiện nam biết như thật Khổ Thánh đế, biết như thật sự Tập khởi khổ Thánh đế, biết như thật sự Diệt tận khổ Thánh đế, biết như thật Con đường đưa đến sự diệt tận khổ Thánh đế. Khi đã biết như vậy, đã thấy như vậy rồi, đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, đó là: thân kiến, giới thủ, nghi, tham dục, và sân nhuế. Sau khi đã đọan được Năm hạ phần kiết sử này rồi, đạt được sanh bát-niết-bàn, chứng A-na-hàm, không sinh trở lại cõi đời này nữa. Đó gọi là hàng thiện nam nhanh nhạy đầy đủ. Thế nào là sắc không đầy đủ? Nếu có ai hỏi người ấy về Luận, Luật mà người ấy không có khả năng hiểu rõ hình thức cũng như ý nghĩa của nó để theo đó lần lượt quyết định giải nói, đó gọi là sắc không đầy đủ. Thế nào là hình thể không đầy đủ? Người ấy chẳng có tiếng tăm, đức lớn, để có khả năng cảm báo tài lợi, cúng dường, y phục, đồ ăn thức uống, thuốc men tùy bệnh. Đó gọi là hàng thiện nam nhanh nhạy đầy đủ, nhưng sắc chẳng đầy đủ, hình thể chẳng đầy đủ.

“Thế nào là nhanh nhạy đầy đủ, sắc đầy đủ, nhưng hình thể chẳng đầy đủ? Là hàng thiện nam biết như thật Khổ Thánh đế này,... cho đến đạt được sanh bát-niết-bàn, chứng A-na-hàm, không sinh trở lại đời này nữa, đó gọi là nhanh nhạy đầy đủ. Thế nào là sắc đầy đủ? Nếu có ai hỏi người ấy về Luận, Luật, người ấy có khả năng đem văn nghĩa lần lượt tùy thuận quyết định mà giải nói Đó gọi là sắc đầy đủ. Thế nào là hìanh thể chẳng đầy đủ? Người ấy chẳng có tiếng tăm, đức lớn, mà có khả năng cảm hóa tài lợi, cúng dường, y phục, đồ ăn thức uống, thuốc men tùy bệnh, đó gọi là thiện nam nhanh nhạy đầy đủ, sắc đầy đủ, nhưng hình thể chẳng đầy đủ.

“Thế nào là thiện nam nhanh nhạy đầy đủ, sắc đầy đủ, hình thể đầy đủ? Là hành thiện nam biết như thật về Khổ Thánh đế này,... cho đến chứng đạt Sanh bát-niết-bàn A-na-hàm, không còn sinh trở lại cõi đời này nữa, đó gọi là nhanh [233b] nhạy đầy đủ. Thế nào là sắc đầy đủ? Nếu có ai hỏi người ấy về Luận, Luật,... cho đến mà vì họ giải nói, đó gọi là sắc đầy đủ. Thế nào là hình thể đầy đủ? Người ấy có tiếng tăm, đức lớn, có khả năng cảm báo tài lợi,... cho đến các loại thuốc men, đó gọi là hình thể đầy đủ, đó cũng gọi là hành thiện nam nhanh nhạy đầy đủ, sắc đầy đủ, hình thể đầy đủ.”

Phật dạy kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành. [5]

KINH 1300. LƯƠNG MÃ [6]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Thế gian có ba loại ngựa hay. Những gì là ba? Có loại ngựa có đủ sự nhanh nhẹn, nhưng chẳng có đủ sắc, chẳng có đủ hình thể. Có loại ngựa có đủ nhanh nhẹn, có đủ sắc, nhưng chẳng có đủ hình thể. Có loại ngựa có đủ nhanh nhẹn, có đủ sắc, cũng có đủ hình thể. Cũng vậy, ở trong Pháp Luật này có ba hàng thiện nam. Những gì là ba? Có hàng thiện nam có đủ nhanh nhẹn, nhưng chẳng có đủ sắc, chẳng có đủ hình thể. Có hàng thiện nam có đủ nhanh nhẹn, có đủ sắc, nhưng chẳng có đủ hình thể. Có hàng thiện nam có đủ nhanh nhẹn, có đủ sắc, có đủ hình thể.

“Thế nào là hàng thiện nam có đủ nhanh nhẹn, nhưng chẳng có đủ sắc, chẳng có đủ hình thể? Là hàng thiện nam biết như thật ‘Đây là Khổ Thánh đế,’ biết như thật ‘Đây là Khổ tập Thánh đế,’ biết như thật ‘Đây là Khổ diệt Thánh đế,’ biết như thật ‘Đây là Khổ diệt đạo Thánh đế.’ Biết như vậy, đã thấy như vậy, tâm giải thoát dục lậu, tâm giải thoát hữu lậu, tâm giải thoát vô minh lậu, biết rằng ‘Ta, sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’ Đó gọi là có đủ nhanh nhẹn. Thế nào là chẳng có đủ sắc? Nếu có ai hỏi người ấy về Luận, Luật,... cho đến không thể vì người mà giải nói, đó gọi là chẳng có đủ sắc. [233c] Thế nào là chẳng có đủ hình thể? Người ấy chẳng có tiếng tăm, đức lớn,... cho đến chẳng cảm được thuốc men các loại. Đó gọi là chẳng có đủ hình thể, hay đó cũng gọi là thiện nam có đủ nhanh nhẹn, nhưng chẳng có đủ sắc, chẳng có đủ hình thể.

“Thế nào là hàng thiện nam có đủ nhanh nhẹn, có đủ sắc, nhưng chẳng có đủ hình thể? Là hàng thiện nam biết như thật ‘Đây là Khổ Thánh đế,... cho đến không còn tái sinh đời sau nữa, Đó gọi là có đủ nhanh nhạy. Thế nào là có đủ sắc? Nếu có ai hỏi người ấy về Luận, Luật,... cho đến có thể vì họ quyết định giải nói. Đó gọi là có đủ sắc. Thế nào là chẳng có đủ hình thể? Người ấy chẳng có tiếng tăm, đức lớn,... cho đến không thể cảm được thuốc men các loại. Đó gọi là hàng thiện nam có đủ nhanh nhẹn, có đủ sắc, nhưng chẳng có đủ hình thể.

“Thế nào là hàng thiện nam có đủ nhanh nhẹn, có đủ sắc, cũng có đủ hình thể? Là hàng thiện nam biết như thật ‘Đây là Khổ Thánh đế’,... cho đến không còn tái sinh đời sau nữa. Đó gọi là có đủ nhanh nhẹn. Thế nào là sắc có đủ? Là hàng thiện nam nếu có ai hỏi về Luận, Luật,... cho đến có thể vì họ quyết định giải nói. Đó gọi là có đủ sắc. Thế nào là có đủ hình thể? Là hàng thiện nam có tiếng tăm, đức lớn,... cho đến thể cảm hóa thuốc men các loại. Đó gọi có đủ hình thể, hay đó gọi là hàng thiện nam có đủ nhanh nhẹn, có đủ sắc, có đủ hình thể.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1301. TAM LƯONG MÃ [7]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Thế gian có ba loại ngựa tốt được vua dùng để kéo xe. Những gì là ba? Loại ngựa tốt có đủ sắc, có đủ lực, có đủ nhanh nhẹn. Cũng vậy, ở Chánh Pháp Luật cũng có ba hàng thiện nam, là nơi thế gian phụng sự, cúng dường cung kính, là ruộng phước trên hết. Những gì là ba? Là hàng thiện nam có đủ sắc, có đủ lực, có đủ nhanh nhẹn.

“Thế nào là có đủ sắc? Là hàng thiện nam sống an trụ luật nghi tịnh giới Ba-la-đề-mộc-xoa, có đầy đủ oai nghi hành xử, thấy tội vi tế thường phát sanh lòng sợ hãi, thọ trì học giới. Đó gọi là có đủ sắc. Thế nào là có đủ lực? Là đối với pháp ác bất thiện đã sinh khiến đoạn diệt, phát khởi ý dục, tinh cần phương tiện, nhiếp thọ tăng trưởng. Đối với pháp ác bất thiện chưa sinh không cho sinh khởi, phát khởi ý dục, tinh cần phương tiện, nhiếp thọ [234a] tăng trưởng. Đối với pháp thiện chưa sinh khiến sinh khởi, phát khởi ý dục, tinh cần phương tiện, nhiếp thọ tăng trưởng. Đối với pháp thiện đã sinh, an trụ không cho mất, phát khởi ý dục, tinh cần phương tiện, nhiếp thọ tăng trưởng. Đó gọi là có đủ lực. Thế nào là có đủ nhanh nhẹn? Là biết như thật ‘Đây là Khổ Thánh đế,’... cho đến đạt được A-la-hán, không còn tái sinh đời sau nữa, đó gọi là có đủ nhanh nhẹn, hay gọi là hàng thiện nam có đủ sắc, có đủ lực, có đủ nhanh nhẹn.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1302. TỨ NĂNG [8]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Ngựa tốt thế gian có đủ bốn năng lực, [9] nên biết chúng được vua dùng để kéo xe. Những gì là bốn? Đó là khôn ngoan, [10] nhanh nhẹn, kham năng, thuần tánh. [11] Cũng vậy, hàng thiện nam thành tựu bốn đức, được thế gian tôn trọng, phụng sự cúng dường, là đám ruộng phước trên hết. Những gì là bốn? Là thiện nam thành tựu giới thân vô học, định thân vô học, tuệ thân vô học, và giải thoát thân vô học.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1303. TIÊN ẢNH [12]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, Vương Xá. Bấy giờ Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Thế gian có bốn loại ngựa tốt. Có loại ngựa tốt đóng vào xe làm xe thăng bằng, nhìn thấy bóng roi chạy nhanh, biết cách nhìn những động tác người điều khiển, nhanh chậm, phải trái theo ý người điều khiển. Này Tỳ-kheo, đó là cái đức thứ nhất của con ngựa tốt thế gian.

“Lại nữa, Tỳ-kheo, thế gian có loại ngựa tốt không thể nhìn bóng roi mà tự sợ hãi, nhưng nếu dùng roi gậy chạm vào lông đuôi của nó, có thể làm cho nó sợ hãi chạy nhanh, tùy theo ý của người điều khiển mà chạy nhanh hay chậm, bên phải hay bên trái. Đó gọi là loại ngựa tốt thứ hai thế gian.

“Lại nữa, Tỳ-kheo, hoặc thế gian có loại ngựa tốt không thể nhìn bóng roi hay để chạm vào lông da mới có thể theo ý người, mà phải dùng đến roi gậy đánh nhẹ vào da thịt, mới có thể sợ hãi chạy, theo ý người điều khiển, chạy nhanh hay chậm, bên phải hay bên trái. Này Tỳ-kheo, đó gọi là ngựa tốt thứ ba.

“Lại nữa, Tỳ-kheo, thế gian có loại ngựa tốt không thể nhìn bóng roi, và chạm vào lông da, hay đánh nhẹ vào da thịt, mà phải dùng dùi sắt đâm vào thân, xuyên suốt qua da, đả thương xương cốt, khi đó ngựa mới kinh hãi kéo xe, trên đường chậm hay nhanh, phải hay trái theo ý người điều khiển. Đó gọi là loại ngựa tốt thứ tư của thế gian.

“Cũng vậy, trong Chánh [234b] Pháp Luật cũng có bốn hàng thiện nam. Những gì là bốn? Hàng thiện nam khi nghe những người nam người nữ chòm xóm láng giềng khác bị tật bệnh khốn khổ cho đến sắp chết; nghe vậy liền phát sanh lòng sợ hãi với chánh tư duy, như con ngựa tốt kia chỉ cần nhìn bóng roi là điều khiển nó được. Đó gọi là hàng thiện nam thứ nhất ở trong Chánh Pháp Luật có khả năng tự điều phục.

“Lại nữa, có hàng thiện nam không do nghe những người nam người nữ chòm xóm láng giềng khác bị khổ vì lão bệnh tử sanh lòng sợ hãi với chánh tư duy, nhưng phải thấy những người nam người nữ chòm xóm láng giềng khác bị khổ vì lão bệnh tử thì mới sanh lòng sợ hãi với chánh tư duy, như con ngựa tốt kia cần chạm vào lông đuôi của nó, có thể nhanh chóng điều phục theo ý người điều khiển. Đó gọi là hàng thiện nam thứ hai ở trong Chánh Pháp Luật có khả năng tự điều phục.

“Lại nữa, có hàng thiện nam không do nghe, thấy những người nam nữ chòm xóm láng giềng khác bị khổ vì lão bệnh tử mà sanh lòng sợ hãi với chánh tư duy; nhưng vì thấy thành ấp chòm xóm có những người quen biết, thân thuộc bị khổ vì lão bệnh tử nên sanh lòng sợ hãi với chánh tư duy. Như con ngựa tốt kia, phải bị roi chạm vào da thịt, sau đó mới chịu theo ý điều phục người điều khiển, đó gọi là hàng thiện nam ở trong chánh pháp luật có thể tự điều phục.

“Lại nữa, có hàng thiện nam không do nghe thấy những người nam nữ chòm xóm láng giềng khác, và những người thân thuộc bị khổ vì lão bệnh tử nên sanh lòng sợ hãi với chánh tư duy; nhưng chính tự thân bị khổ vì lão bệnh tử mới sanh lòng nhàm tởm sợ hãi với chánh tư duy. Như con ngựa tốt kia, phải bị đâm vào da thịt thấu xương cốt, sau đó mới chịu theo ý điều phục của người điều khiển, đó gọi là hàng thiện nam thứ tư ở trong Thánh Pháp Luật có thể tự điều phục.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1304. CHỈ THI [13]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, đức Phật ở trong vườn trúc Ca-lan-đà, tại thành Vương Xá. Bấy giờ, có người luyện ngựa tên là Chỉ-thi [14] đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật, rồi ngồi xuống một bên, bạch Phật rằng:

“Con coi thế gian thật là đánh khinh miệt, giống như bầy dê. Thế Tôn! Chỉ có con mới có khả năng điều phục ngựa điên, ngựa hoang, ngựa dữ. Con có phương pháp, chỉ cần trong giây lát là có thể khiến cho những chứng tật của chúng hiện ra, và tùy theo tật đó mà có cách điều phục.”

Phật nói với chủ tụ lạc luyện ngựa:

“Ông có bao nhiêu cách để điều phục ngựa?”

Người luyện ngựa bạch Phật:

“Có ba cách để điều phục ngựa dữ. Những gì là ba? Một là mềm dịu, hai là thô cứng, ba là vừa mền dịu vừa thô cứng.”

Phật nói với chủ tụ lạc:

“Ông [234c] dùng ba phương cách này để điều phục ngựa, nếu không điều phục được, nên làm thế nào.”

Người luyện ngựa bạch Phật:

“Nếu không điều phục được, nên giết nó. Vì sao? Vì chớ để nó làm nhục mình.”

Người luyện ngựa lại bạch Phật:

“Thế Tôn là bậc Vô thượng Điều ngự Trượng phu. [15] Ngài đã dùng bao nhiêu phương pháp để điều ngự trượng phu?”

Phật nói với chủ tụ lạc:

“Ta cũng dùng ba cách để điều phục con người. [16] Những gì là ba? Một là một mực mền dịu, hai là một mực thô cứng, ba là vừa mền dịu vừa thô cứng.”

Phật nói với tiếp chủ tụ lạc:

“Một mực mềm dịu là, như nói rằng, ‘Đây là thiện hành của thân; đây là quả báo của thân thiện hành. Đây là thiện hành của miệng, ý; đây là quả báo của miềng, ý thiện hành. Đây gọi là trời. Đây gọi là người. Đây gọi là sự hóa sanh nơi cõi thiện. Đây gọi là Niết-bàn.’ Đó gọi là một mực mền dẻo.

“Một mực thô cứng là như nói, ‘Đây là ác hành của thân; đây là quả báo của thân ác hành. Đây là ác hành của miệng, ý; đây là quả báo của miềng, ý các hành. Đây gọi là địa ngục. Đây gọi là ngạ quỷ. Đây gọi là súc sanh. Đây gọi là ác thú. Đây gọi là đọa ác thú’ Đó là sự giáo hóa thô cứng của Như Lai.

“Vừa mềm dịu vừa thô cứng là có lúc nói thiện hành của thân; có lúc nói quả báo của thiện hành của thân. Có lúc nói thiện hành của miệng, ý; có lúc nói quả báo của thiện hành của ming, ý. Có lúc nói ác hành của thân; có lúc nói quả báo củq ác hành của thân. Có lúc nói ác hảnh của mieng, ý; Có lúc nói quản báo của ác hành của miệng, ý. Như vậy gọi là trời, như vậy gọi là người, như vậy gọi là đường dữ, như vậy gọi là Niết-bàn; như vậy gọi là địa ngục, như vậy gọi là súc sanh, ngạ quỷ, như vậy gọi là đường dữ, như vậy gọi là đọa đường dữ.’ Đó gọi là sự giáo hóa vừa mềm dịu vừa thô cứng của Như Lai.”

Người luyện ngựa bạch Phật:

“Thế Tôn, nếu dùng ba phương pháp này để điều phục chúng sanh; nhưng nếu không điều phục được thì phải như thế nào?”

Phật nói với chủ tụ lạc:

“Cũng phải giết họ đi. Vì sao? Vì không nên để họ làm nhục Ta.”

Người luyện ngựa bạch Phật:

“Trong pháp của Thế Tôn, sát sanh là không thanh tịnh. Trong pháp của Thế Tôn cũng không cho sát sanh, mà nay lại nói với giết; vậy ý nghĩa của nó thế nào?”

Thế Tôn nói với chủ tụ lạc:

“Đúng vậy, đúng vậy! Trong pháp của Như Lai sát sanh là không thanh tịnh; trong pháp của Như Lai cũng không cho sát sanh. Nhưng trong pháp của Như Lai, nếu dùng ba phương pháp để giáo dục, mà vẫn không điều phục được, Ta sẽ không nói đến họ, không dạy, không nhắc nữa. Chủ tụ lạc, ý ông thế nào? Trong pháp Như Lai, không nói đến họ, [235a] không dạy, không nhắc nữa, há không phải là giết sao?”

Người luyện ngựa bạch Phật:

“Thật vậy, thưa Thế Tôn! Không nói đến họ, vĩnh viễn không dạy, không nhắc nữa, đích thị họ đã chết rồi! Vì vậy cho nên, từ ngày hôm nay tôi lìa các nghiệp ác bất thiện.”

Phật nói với chủ tụ lạc:

“Lành thay những lời này!”

Người chủ tụ lạc luyện ngựa Chỉ-thi sau khi nghe những gì Phật đã dạy, hoan hỷ, tùy hỷ, lễ sát chân rồi lui.

KINH 1305. HỮU QUÁ [17]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, phật ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Ngựa thế gian có tám cách thái. [18] Những gì là tám? Khi ngựa dữ kéo xe, chân sau đá người, chân trước quỳ xuống đất, đầu lúc lắc, cắn người. Đó gọi là cách thái thứ nhất của ngựa thế gian. Lại nữa, khi ngựa dữ kéo xe, cúi đầu xuống làm rung ách. Đó gọi là cách thái thứ hai của ngựa dữ thế gian. Lại nữa, khi ngựa dữ thế gian kéo xe, nó xuống lề đường mà đi, hoặc làm cho xe nghiêng khiến cho xe bị lật. Đó gọi là cách thái thứ ba. Lại nữa, khi ngựa dữ thế gian kéo xe, nó ngẩng đầu lên mà chạy. Đó gọi là cách thái thứ tư của ngựa dữ thế gian. Lại nữa, khi ngựa dữ thế gian kéo xe, mới bị ít roi gậy, nó hoặc làm cho đứt dây cương, hay bứt dàm, chạy ngang chạy dọc. Đó gọi là cách thái thứ năm. Lại nữa, khi ngựa dữ thế gian kéo xe, nó giơ hai chân trước lên làm như người đứng. Đó là cách thái thứ sáu. Lại nữa, khi ngựa dữ thế gian kéo xe, phải dùng roi gậy mới chịu đứng yên, không động. Đó là cách thái thứ bảy. Lại nữa, khi ngựa dữ thế gian kéo xe, bốn chân chụm lại, phục sát đất không chịu đứng lên. Đó gọi là cách thái thứ tám.

“Con người dữ [19] của thế gian cũng vậy, ở trong Chánh Pháp Luật có tám điều lỗi. Những gì là tám? Hoặc Tỳ-kheo khi bị các đồng phạm hạnh cử tội bằng thấy, nghe, nghi; người kia sân giận, chỉ trích trở lại người cử tội rằng: ‘Thầy ngu si, không biết, bất thiện, người ta vừa cử tội Thầy, sao Thầy lại cử tội tôi?’ Như con ngựa dữ kia hai chân sau chõi lui, hai chân trước quỵ xuống đất, làm đứt cương, gãy ách. Đây gọi là lỗi thứ nhất của con người trong Chánh Pháp Luật.

“Lại nữa, Tỳ-kheo khi bị các đồng phạm hạnh cử tội bằng thấy, nghe, nghi; liền trở lại cử tội người kia, giống như ngựa dữ cứng cổ làm gãy ách. Đây gọi là lỗi thứ hai của con người trong Chánh Pháp Luật.

“Lại nữa, Tỳ-kheo khi bị các đồng phạm hạnh cử tội bằng thấy, nghe, nghi; nhưng không dùng lời đứng đắn đáp lại, mà nói sang chuyện khác, hay không nhẫn, sân nhuế, [235b] kiêu mạn, che dấu, hiềm hận, làm những chuyện vô lý, như ngựa dữ kia không đi đường thẳng làm cho xe lật úp. Đây gọi là lỗi thứ ba của con người trong Chánh Pháp Luật.

“Lại nữa, Tỳ-kheo khi bị các đồng phạm hạnh cử tội bằng thấy, nghe, nghi, khiến cho người kia nhớ lại, nhưng lại nói rằng: ‘Tôi chẳng nhớ.’ Ngang ngạnh không phục, như ngựa dữ kia bước thụt lùi. Đây gọi là lỗi thứ tư của con người trong Chánh Pháp Luật.

“Lại nữa, Tỳ-kheo khi các đồng phạm hạnh cử tội bằng thấy, nghe, nghi; họ khinh miệt, không kể gì đến người khác, cũng không kể gì đến chúng Tăng, tùy ý ôm y bát bỏ đi, như ngựa dữ kia bị ăn roi gậy, bỏ chạy dọc ngang. Đây gọi là lỗi thứ năm của con người trong Chánh Pháp Luật.

“Lại nữa, Tỳ-kheo khi bị các đồng phạm hạnh cử tội bằng thấy, nghe, nghi; họ ngồi trên giường cao tranh luận quanh co với các Thượng tọa, như ngựa dữ kia đứng hai chân như người. Đây gọi là lỗi thứ sáu của con người trong Chánh Pháp Luật.

“Lại nữa, Tỳ-kheo khi bị các đồng phạm hạnh cử tội bằng thấy, nghe, nghi; họ im lặng không đáp, để xúc não đại chúng, như ngựa dữ kia bị roi gậy vẫn trơ trơ không động. Đây gọi là lỗi thứ bảy của con người trong Chánh Pháp Luật.

“Lại nữa, Tỳ-kheo khi bị các đồng phạm hạnh cử tội bằng thấy, nghe, nghi; người bị cử tội liền xả giới, tự sinh thối thất, đến trước cửa chùa nói rằng: ‘Ông mặc nhiên mà sống hoan hỷ khoái lạc. Tôi tự xả giới lui về.’ Như con ngựa dữ kia bốn chân chụm lại, phục sát đất không động. Đây gọi là lỗi thứ tám của con người trong Chánh Pháp Luật. Đó gọi là Tỳ-kheo đối trong Chánh Pháp Luật có tám điều lỗi lầm của con người.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1306. BÁT CHỦNG ĐÚC [20]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, đức Phật ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Ngựa tốt ở thế gian thành tựu được tám đức, theo ý muốn của người theo đường rộng hẹp mà đi. Những gì là tám? Sinh nơi quê hương của giống ngựa tốt. [21] Đó là đức thứ nhất của ngựa tốt.

“Lại nữa, thể tánh ôn hòa, không làm người kinh sợ. [22] Đó là đức thứ hai của ngựa tốt.

“Lại nữa, ngựa tốt không lựa chọn đồ ăn thức uống. Đó là đức thứ ba của ngựa tốt.

“Lại nữa, ngựa tốt ghê tởm chỗ bẩn không sạch, chọn đất sạch để nằm. Đó là đức thứ tư của ngựa tốt.

“Lại nữa, ngựa tốt luôn thể hiện tính tình thái độ nhạy cảm trước người huấn luyện, [23] mã sư [235c] sẽ luyện tập cho nó bỏ những thái độ này. Đó là đức thứ năm của ngựa tốt.

“Lại nữa, ngựa tốt khi đã đóng vào xe, nó không để ý những con ngựa khác nữa; tùy cỗ xe nặng nhẹ mà tận dụng sức lực của mình. Đó là đức thứ sáu của ngựa tốt.

“Lại nữa, ngựa tốt thường theo đường chánh, không đi lạc đường. Đó là đức thứ bảy của ngựa tốt.

“Lại nữa, ngựa tốt dù bị bệnh, hoặc già yếu vẫn gắng sức kéo xe không chán, không mệt. Đó là đức thứ tám của ngựa tốt.

“Cũng vậy, con người [24] trong Chánh Pháp Luật cũng thành tựu được tám đức, nên biết đó là bậc Hiền sỹ. [25] Những gì là tám? Bậc Hiền sỹ an trụ chính giới, luật nghi Ba-la-đề-mộc-xoa, có đủ oai nghi hành xử; thấy tội vi tế thường sinh lòng sợ hãi, giữ gìn học giới. Đó là đức thứ nhất của trượng phu trong Chánh Pháp Luật.

“Lại nữa, Hiền sỹ tính tự hiền thiện, khéo điều phục, khéo an trụ, chẳng làm phiền, không làm sợ hãi đồng phạm hạnh. Đó là đức thứ hai của Hiền sỹ.

“Lại nữa, Hiền sỹ đi khất thực theo thứ lớp, tùy theo những gì nhận được, dù ngon hay dở, tâm mình vẫn bình đẳng không hiềm, không đắm trước. Đó là đức thứ ba của Hiền sỹ.

“Lại nữa, Hiền sỹ sanh tâm yểm ly các nghiệp ác nơi thân, miệng, ý, các pháp ác bất thiện, cùng các phiền não, chúng dẫn đến thọ nhận các báo khổ nhiệt não nhiều lần; đối với sự sinh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não trong đời vị lai lại càng yểm ly. Đó là đức thứ tư của Hiền sỹ.

“Lại nữa, Hiền sỹ nếu có những lỗi lầm, gian trá, bất thật gì đối với Sa-môn nhanh chóng trình lên Đại sư và thiện tri thức. Đại sư thuyết pháp chắc chắn sẽ trừ dứt. Đó là đức thứ năm của vị Hiền sỹ.

“Lại nữa, Hiền sỹ có bản tâm cầu học, suy nghĩ như vầy: ‘Giả sử người khác có học hay không học, ta cũng phải học.’ Đó là đức thứ sáu của Hiền sỹ.

“Lại nữa, Hiền sỹ thực hành tám chi Chánh đạo, chẳng thực hành phi đạo. Đó là đức thứ bảy của Hiền sỹ.

“Lại nữa, Hiền sỹ suốt đời nổ lực tinh cần, không chán, không mệt. Đó là đức thứ tám của trượng phu.

“Hiền sỹ thành tựu tám đức như vậy, tùy thuộc vào sự thực hành của mình mà có thể tiến triển nhanh chóng.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1307. SẰN-ĐÀ CA-CHIÊN-DIÊN [26]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong tinh xá Thâm cốc tại làng Na-lê. [27] Bấy giờ Thế Tôn nói với Sằn-đà Ca-chiên-diên: [28]

“Nên tu thiền chơn thật, chớ tập thiền ngang ngạnh. [29] Như ngựa ngang ngạnh, cột nơi cạnh máng cỏ chuồng ngựa, [236a] nó không nghĩ, ‘Ta nên làm gì? Ta không nên làm gì?’ mà chỉ nghĩ đến thóc và cỏ. Cũng vậy, con người kia [30] tập hành quen với tham dục quấn chặt, [31] cho nên, vị kia bằng tâm tham dục mà tư duy, đối với đạo xuất ly không biết như thật, [32] tâm thường rong duỗi, tùy theo tham dục quấn chặt mà cầu chánh thọ. Nó tập hành quen với sân nhuế, thụy miên, trạo hối, nghi quấn chặt, cho nên, đối với đạo xuất ly không biết như thật; với tâm bị trùm kín bởi nghi [33] mà tư duy để cầu chánh thọ.

“Này Sằn-đà, nếu thật là ngựa thuần giống, [34] khi cột nơi cạnh máng cỏ chuồng ngựa, nó chẳng nghĩ đến cỏ, nước, mà chỉ nghĩ đến việc kéo xe. Cũng vậy, người mà không an trụ với niệm tưởng tham dục quấn chặt, đối với sự xuất ly biết như thật; không với tham dục quấn chặt mà cầu chánh thọ; cũng không bị quấn chặt bởi sân nhuế, thụy miên, trạo hối, nghi, mà thường xuyên an trụ xuất ly; biết như thật về các sự quấn chặt của sân nhuế, thụy miên, trạo hối, nghi; không với nghi triền mà cầu chánh thọ.

“Như vậy, Sằn-đà, Tỳ-kheo thiền như vậy không y cứ vào đất mà tu thiền, không y cứ vào nước, gió, lửa, không, thức, vô sở hữu, phi tưởng phi phi tưởng mà tu thiền; không y cứ vào thế giới này, không y cứ vào thế giới khác, không phải mặt trời, mặt trăng, không phải thấy, nghe, cảm, biết, không phải đắc, không phải cầu, không phải tùy thuận tầm, không phải tùy thuận tứ [35] mà tu thiền. Này Sằn-đà, Tỳ-kheo tu hiền như vậy thì những thiên chủ Y-thấp-ba-la, [36] Ba-xà-ba-đề [37] đều cung kính, chấp tay, cúi đầu, làm lễ mà nói kệ tán thán:

Nam mô Đại sỹ phu! [38]

Nam mô Đại sỹ phu!

Vì tôi không thể biết,

Ngài nương đâu mà thiền!”

Bấy giờ, Tôn giả Bạt-ca-lợi đang đứng sau Phật cầm quạt hầu Phật. Bạt-lợi-ca liền bạch Phật:

“Thế Tôn, Tỳ-kheo làm sao nhập thiền mà không y cứ vào đất, nước, lửa, gió.... cho đến giác quán mà tu Thiền định? Làm sao Tỳ-kheo tu Thiền được những thiên chủ Y-thấp-ba-la, Ba-xà-ba-đề chấp tay, cung kính, cúi đầu, làm lễ và nói kệ tán thán:

Nam mô Đại sỹ phu!

Nam mô Đại sỹ phu!

Vì tôi không thể biết,

Ngài nương đâu mà Thiền!”

Phật nói với Tỳ-kheo Ba-lợi-ca:

“Tỳ-kheo, đối với địa tưởng có thể điều phục địa tưởng, [39] đối với thủy, hỏa, phong tưởng, không vô biên xứ tưởng, thức vô biên xứ tưởng, vô sở hữu xứ tưởng, phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng; thế giới này, thế giới khác, mặt trời, mặt trăng, thấy, nghe, [236b] cảm, biết; hoặc đắc, hoặc cầu, hoặc tầm, hoặc tứ, đều điều phục các tưởng kia.

“Này Bạt-ca-lợi, Tỳ-kheo tu thiền như vậy, không y cứ vào đất, nước, lửa, gió... cho đến không y cứ vào tầm, tứ để tu thiền. Này Bat-lợi-ca, Tỳ-kheo tu Thiền như vậy, các thiên chủ Y-thấp-bà-la, Ba-xà-ba-đề đều cung kính, chấp tay, cúi đầu làm lễ và nói kệ tán thán:

Nam mô Đại sỹ phu!

Nam mô Đại sỹ phu!

Vì tôi không thể biết,

Ngài nương đâu mà Thiền!”

Khi nghe Phật nói kinh này, Tỳ-kheo Sằn-đà Ca-chiên-diên xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh. Tỳ-kheo Bạt-lợi-ca không còn khởi các lậu, tâm được giải thoát.

Phật nói kinh này xong, Tỳ-kheo Bạt-ca-lợi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.


 [1] Tương ưng mã, gồm các kinh Đại chánh 917 (cuối quyển 32)-926 (đầu quyển 33).

 [2] Đại chánh, kinh 917. Ba cạc huấn luyện ngựa. Pāli, A. 3.137. Assakhaḷuṅka. Cf. No 100(143).

 [3] Điều mã 調馬; No 100(143): bất điều chi mã, ngựa chưa được huấn luyện. Pāli: assakhluṅka.

 [4] Đại chánh kinh 918. Pāli, A. 3.138 Assadassa. Cf. No 100(144).

 [5] Bản hán, hết quyển 32.

 [6]  Đại chánh, kinh 919. Pāli, A. 3.139 Assakhaluṅka.No 100(145).

 [7] Đại chánh, kinh 920. Pāli, A. 3.  94-96  Ājānīya. Cf. No 100(146).

 [8] Đại chánh, kinh 921. Pāli, A. 4.256-257 (ii. 250). Ājānīya. Cf. No 100(147).

 [9] Để bản: năng 能. Tống-Nguyên-Minh: chủng 種. Pāli: rañño bhaddo assājāniyo, ngựa tốt khôn ngoan của vua.

 [10] Hán: hiền thiện 賢善. Pāli: bhaddo; xem cht. 9 trên.

 [11] Bốn yếu tố, theo Pāli: vaṇṇasampanno, balasampanno, javasampanno, ārohapariṇāhasampanno: có sắc, có lực, có sự nhanh nhẹn, có thân hình cao lớn.

 [12] Đại chánh, kinh 922. Bóng roi. Pāli, A. 4.113 Patoda.Cf. No 100(148).

 [13] Đại chánh, kinh 923. Pāli, A. 4.111 Kesi.

 [14] Điều mã sư Chỉ-thi 調馬師只尸. Pāli: Kesi assadammasārathi.

 [15] Vô thượng điều ngự trượng phu 無上調御丈夫. Pāli: anuttaro purisadamma-sārathi, vị huấn luyện người không còn ai hơn. Một trong 10 hiệu của Phật.

 [16] Nguyên Hán: trượng phu 丈夫. Pāli: purisa, con người (đàn ông).

 [17] Đại chánh, kinh 924. Pāli, A. 8.14 Assakhaluṅka. Cf. No 100(149).

 [18] Mã bát thái 馬八態. Pāli: aṭṭha assakhaḷuṅke, tám loại ngựa bất kham.

 [19] Ác trượng phu 惡丈夫. Pāli: purisakhaḷuṅka, con người bất kham.

 [20] Đại chánh, kinh 924. Pāli, A. 8.13  Ājañña. Cf. No 100(150).

 [21] Lương mã hương 良馬鄉. Pāli: ubhato sujāto hoti mātito ca pitito ca, thuần chủng, cả cha và mẹ đều thuộc giốngg tốt.

 [22] Hán: bất kinh khủng nhân 不驚恐人. Pāli: na ca aññe asse ubbejetā, không làm các ngựa khác sợ.

 [23] Pāli: yāni kho panassa honti sāṭheyyāni kūṭeyyāni jimheyyāni vaṅkeyyanī tāni yathābhūtaṃ sārathissa āvikattā hoti, nếu có những tính giảo hoạt, man trá, quanh co, tà vạy; thảy đều hiện rõ một cách trung thực cho người huấn luỵẹn

 [24] Hán: trương phu 丈夫, con người,hay người đàn ông. Bản Pāli nói bhikkhu.

 [25] Hán: hiền sỹ phu 賢士夫, chỉ con người hiền thiện (Pāli: bhaddo puriso).

 [26] Đại chánh, kinh 926. Pāli, A. 11.10  Sandha (Sekha). Hán, No 100(151).

 [27] Na-lê tụ lạc Thâm cốc tinh xá 那梨聚落深谷精舍. Pāli: trong ngôi nhà ngói (giñjakāvasathe) ở Nātika.

 [28] Sắn-đà Ca-chiên-diên 詵陀迦旃延. Pāli:Sandha.

 [29] Hán: chân thật thiền, cường lương thiền 真實禪強良禪. Pāli:ājāniyajjhāyitaṃ, khaluṅkajjhāyitaṃ, tu thiền của con ngựa thuần, tu thiền của con ngựa chứng.

 [30] Hán: trượng phu, chỉ con người theo ngghĩa thông thường.

 [31] Hán: ư tham dục triền đa sở tu tập 於貪欲纏多所修習. Pāli: kāmarāga-pariyuṭṭhitena cetasā viharati, sống với tâm tư bị quấn chặt bởi tham dục.

 [32] Pāli: uppanassa kāmarāgassa nissaraṇaṃ yathābhūtaṃ nappājānati, nó không biết như thật sự xuất ly đối với tham dục đã sanh.

 [33] Nghi cái tâm 疑蓋心.

 [34] Hán: chân sanh mã 真生馬.

 [35] Hán: tùy giác, tùy quán 隨覺隨觀.

 [36] Y-thấp-bà-la 伊濕波羅. Pāli: Issara (Skt. Íśvara).

 [37] Ba-xà-ba-đề 波闍波提. Pāli: Pajāpati.

 [38] Pāli: namo te purisājañña, namo te purisuttama, Kính lễ con người hiền thiện! Kính lễ con người siêu việt!

 [39] Pāli: paṭhaviyaṃ paṭhavīsaññā vibhūtā hoti; vì vibhūta có hai nghĩa: phi hữu, và minh nhiên, nên câu Pāli có thể hiểu theo hai cách ngược nhau. Nhưng vì paṭhaviyaṃ ỏ cách số sáu, nên cần hiểu như bản Hán: ở nơi đất không có tưởng về đất.